Top 5 # Quy Trình Trồng Hoa Lan Hồ Điệp Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Inkndrinkmarkers.com

Quy Trình Trồng Và Chăm Sóc Lan Hồ Điệp

Việt Nam có khí hậu thích hợp và có nhiều nguyên liệu làm giá thể tốt cho lan Hồ điệp sinh trưởng và phát triển, nhiều tiềm năng trở thành một nước sản xuất lan Hồ điệp lớn trong khu vực. Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2004, diện tích trồng hoa của cả nước xấp xỉ 9.000 ha (Nguyễn Xuân Linh và Nguyễn Thị Kim Lý, 2005).

Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu Hoa, Cây cảnh (Viện Nghiên cứu Rau quả), từ năm 2008 đến nay, quy mô sản xuất lan Hồ điệp thương mại tăng lên đáng kể và dần đều qua các năm, cả về diện tích, số lượng, cũng như mức độ đầu tư: diện tích toàn miền Bắc trước năm 2005 là 1.200m 2 và 23.000 cây, năm 2012 diện tích toàn miền đã tăng lên 24.100m 2 và 333.000 cây. Tuy thế, lượng cung vẫn không đủ cầu và phải nhập 230.000 cây từ Trung Quốc và Đài Loan. Nhu cầu cây giống và cây lan thương mại của Việt Nam cao như vậy nhưng thực tế về phương thức sản xuất hoa lan Hồ điệp ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu vẫn là hình thức nhập cây con, cây nhỡ và cây đã có ngồng về chờ hoa nở để tiêu thụ. Từ năm 2008-2012, hình thức nhập cây giống về để sản xuất tăng dần. Số lượng nhập cây nhỡ giảm đi nhưng số lượng nhập cây ngồng vẫn cao. Như vậy, việc sản xuất giống ở Việt nam còn rất hạn chế, không chủ động nguồn giống trong sản xuất cả về số lượng cũng như chủng loại (Nguyễn Thị Sơn và ctv, 2014).

Quy trình trồng và chăm sóc lan Hồ điệp

Là một trong những khu vực xuất hiện nhiều loại lan quý trên thế giới, với điều kiện khí hậu, ẩm độ, nhiệt độ, cường độ ánh sáng của miền Bắc Việt Nam có nhiều điểm tương đồng so với các vùng trồng hoa lan Hồ điệp theo quy mô công nghiệp như Quảng Châu (Trung Quốc), Cao Hùng (Đài Loan). Miền Bắc Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển sản xuất lan Hồ điệp theo quy mô công nghiệp, tuy nhiên nếu trồng ở điều kiện tự nhiên lan Hồ điệp sẽ ra mầm hoa sau đợt gió mùa Đông Bắc vào khoảng tháng 10 dương lịch, cho hoa nở vào tháng 2-3 dương lịch năm sau (chậm so với Tết âm lịch 30-50 ngày), mặt khác để nở tự nhiên hoa ra không đồng đều, chỉ đạt 35,5% số cây cho hoa nở.

Theo các chuyên gia, Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng lớn trong sản xuất phong lan, nhưng thực tế hiện nay là: trong khi nhu cầu hoa lan nội địa và nhu cầu xuất khẩu đang ở mức cao thì Việt Nam vẫn phải chi hàng tỷ đồng mỗi năm để nhập khẩu lan. Tìm giải pháp phát huy tiềm năng của ngành lan Việt Nam là một trong những vấn đề được quan tâm trong Đề án phát huy tiềm năng xuất khẩu rau hoa quả mà Bộ Thương mại đã và đang triển khai hiện nay (Đặng Văn Đông, 2004).

Quy trình, phương pháp tổ chức thực hiện

Đảm bảo tối thiểu các yêu cầu:

– Vườn cây con được thiết kế theo kiểu mái vòm hoặc chữ A, cao 4-5 m, xung quanh che lưới chắn gió nhưng phải thật thoáng mát, tuyệt đối không cho ánh sáng trực tiếp vào lan Hồ điệp.

– Vườn phải có mái che mưa, lưới cắt nắng hai lớp trong đó lớp phía dưới có thể di chuyển để điều chỉnh ánh sáng.

– Vườn phải thoáng mát, nhiệt độ trong vườn không được cao hơn nhiệt độ bình thường bên ngoài.

– Giàn cây nên thiết kế cách mặt đất tối thiểu 70-80cm. Chiều rộng luống khoảng 1,2-1,6m tùy thuộc vào điều kiện chăm sóc. Vật liệu làm giàn có thể là tre, gỗ, hoặc bằng sắt tùy điều kiện kinh tế nhưng phải đảm bảo chắc chắn.

Tùy vào khả năng mà vườn có thể thiết kế thêm lưới chống côn trùng xung quanh, hệ thống tưới phun, hệ thống phun sương làm mát không khí trong nhà, hệ thống tưới phun làm mát trên mái,…

– Ở địa phương không đảm bảo điều kiện để cho cây ra hoa, cần phải nhà để xử lý lạnh, hoặc vận chuyện đến vùng khác để đảm bảo điều kiện cho cây ra hoa.

Chuẩn bị giá thể

– Sử dụng dớn mềm Trung Quốc, New Zealand hoặc dớn mềm Chi Lê đã được xử lý an toàn nấm bệnh làm giá thể.

– Dớn có đặc tính tơi xốp và thoáng khí, đồng thời có khả năng giữ nước tốt.

– Dớn được làm tơi xốp và tưới đủ ẩm trước khi sử dụng để trồng, dớn trồng không được quá ẩm và cũng không được khô.

Chậu trồng

– Chậu trồng lan Hồ điệp là chậu không sâu, nhỏ, màu trắng.

– Khi cây còn nhỏ dùng chậu có đường kính 5 cm, sau 4-6 tháng khi cây có khoảng cách giữa 2 lá lớn hơn 12 cm thì chuyển sang chậu có đường kính 8,3 cm. Sau giai đoạn trồng từ 9-12 tháng khi khoảng cách giữa 2 lá lớn hơn 18 cm thì tiếp tục chuyển sang chậu có đường kính 12 cm.

– Cây con trong chai được lấy ra nhẹ nhàng, rửa sạch môi trường còn dính trên rễ cây đến khi thấy không còn nhớt, cắt bỏ những rễ, lá bị hư, thối. Sau đó xếp cây lên khay hoặc rổ nhựa cho ráo nước, nhưng không để quá khô làm mất sức của cây.

– Khi cây đã ráo nước tiến hành trồng ngay vào chậu nhựa trong, giá thể là dớn mềm đã được xử ‎lý như sau:

+ Bước 1: dớn được làm tơi xốp;

+ Bước 2: tưới phun sương giúp dớn ướt đều bề mặt;

+ Bước 3: vắt ráo nước rồi mới bắt đầu trồng.

Sau khi xử lý dớn xong, tiến hành bó cây đều quanh gốc, sau đó đặt vào chậu nhựa. Chậu nhựa được lót một lớp xốp hay than củi mỏng (từ 0,5-1,5 cm), chú ý bó dớn không quá chặt hoặc quá lỏng. Sau khi trồng 3-5 giờ tiến hành phun thuốc trừ nấm và vi khuẩn với nồng độ bằng ½ nồng độ khuyến cáo, định kỳ 3 ngày/lần.

* Điều kiện ở vườn ươm: nên giữ nhiệt độ thích hợp trong vườn ươm ở mức 23-28 0 C, đảm bảo hệ thống thông gió hoạt động tốt, độ ẩm 70-80%. Che mưa tuyệt đối, che sáng 50-70%.

* Bón phân: giai đoạn từ khi trồng đến 1 tháng, liều lượng phân chỉ sử dụng bằng 1/3 liều khuyến cáo với định kỳ 3 ngày/lần. Sau 1 tháng chế độ chăm sóc như sau:

– Sử dụng phân vô cơ chuyên dùng có hàm lượng đạm cao như: NPK 30-10-10, phân cá Fish Emulsion 5-1-1, định kỳ phun 2 lần/ tuần, nồng độ phun bằng ½ liều khuyến cáo trong 4 tháng đầu, sau đó phun như khuyến cáo. Cứ 3 định kỳ phun phân vô cơ xen kẽ 1 định kỳ phun phân hữu cơ (Fish Emulsion) + 1 định kỳ phun B1.

– Sau khi cây có từ 4 lá trở lên (tương đương cây ≥ 15 tháng), giai đoạn này là cây chuẩn bị ra hoa, do đó quá trình chăm sóc nên chú ‎ ý về điều kiện nhiệt độ và chế độ phân bón. Thời điểm này nên tăng hàm lượng lân và kali để đảm bảo tăng tỷ lệ hoa và chất lượng hoa (chú ý Hồ điệp ra hoa không phụ thuộc vào hàm lượng phân NPK mà phụ thuộc vào yếu tố nhiệt độ). Trong thời gian này, duy trì nhiệt độ thấp từ 18-25 0C hoặc nhiệt độ chênh lệch ngày đêm từ 8-10 0C. Lan Hồ điệp có hoa liên tục, do đó xử lý nhiệt độ thấp càng dài thì hoa càng nhiều, khoảng cách giữa các hoa càng ngắn. Nếu nhiệt độ trên 25 0C thì không thể phân hóa hoa, dưới 15 0 C thì không ra nụ, ra hoa. Trước khi đưa vào xử lý 10 ngày tưới phân NPK 6-30-30 pha nồng độ 1g/lít nước, thời gian phun 7-10 ngày/lần, để cho hoa mập hơn, bền và sắc hoa tươi lâu hơn.

– Là khâu quan trọng, giúp duy trì ẩm độ thích hợp cho cây. Cây cần đảm bảo ẩm độ từ 50-70%. Do đó quá trình tưới cần đảm bảo độ ẩm thích hợp giúp cây sinh trưởng phát triển tốt.

– Tùy thuộc vào độ ẩm của giá thể mà có thể tưới một hay nhiều lần. Hàng ngày tưới phun sương nhẹ 2 lần vào giữa buổi sáng và giữa buổi chiều. Lan Hồ điệp là loại cây rất dễ bị thối nhũng nên khi tưới phun cần đảm bảo trên bề mặt lá không bị đọng nước. Do đó, cần tưới đẫm vào chậu là thích hợp nhất.

* Thay chậu lần thứ nhất: sau khi trồng được từ 4-6 tháng, lúc này khoảng cách giữa 2 lá khoảng 12 cm thì chuyển sang chậu có đường kính 8,3 cm. Lấy cây ra khỏi bầu, tách bỏ giá thể cũ và thay bằng giá thể mới rồi trồng lại vào chậu mới nhẹ nhàng tránh làm tổn thương đến rễ. Dưới đáy chậu lót 1-2 miếng xốp giúp chậu thoát nước tốt, tránh làm cây bị úng. Sau khi thay chậu khoảng 3-5 giờ tiến hành phun thuốc trừ nấm và vi khuẩn. Trong 4 tuần đầu sau khi trồng, tưới phun nhẹ trên bề mặt lá và giá thể, giữ ẩm môi trường xung quanh. Sau khoảng 2 ngày có thể bón phân, lượng phân bón NPK theo tỷ lệ 30-10-10 pha 0,5g/1lít nước, ngoài ra có thể bổ sung các loại phân hữu cơ như Humix, Dynamic, Seaweed,…

* Thay chậu lần thứ hai: lần thay chậu thứ 2 cũng là lần thay chậu cuối cùng, được xác định khi cây có khoảng cách 2 lá đạt khoảng 18cm, tương ứng với giai đoạn cây được 9-12 tháng tuổi. Sử dụng chậu có đường kính khoảng 12 cm. Cách thay chậu tương tự như lần đầu nhưng chú ý dùng kéo cắt bớt các rễ già trước khi trồng lại. Yêu cầu ngoại cảnh trong giai đoạn này như sau: che sáng đối với mùa hè là 60-70% và mùa đông 40-50%, nhiệt độ 20-28 0C, độ ẩm 70-80%. Sau khi chuyển chậu lần thứ 2 khoảng 5-6 tháng cây có khoảng 4 lá và bắt đầu phân hoá mầm hoa.Trong thời gian này cần duy trì nhiệt độ thấp từ 18-20 0C, hoặc nhiệt độ chênh lệch ngày đêm từ 8-10 0C. Lan Hồ điệp có hoa liên tục, vì vậy khi được xử lý nhiệt độ thấp trong thời gian càng dài thì cây ra hoa càng nhiều và khoảng cách giữa các hoa càng ngắn. Nhiệt độ cao trên 25 0C cây khó phân hóa hoa. Nhiệt độ thấp dưới 15 0 C ra nụ, ra hoa kém.Trong suốt thời kỳ phân hóa mầm hoa đến khi cây nhú phát hoa sử dụng phân có hàm lượng P, K cao. Có thể phun NPK loại 6-30-30 pha 1g/lít nước, thời gian phun 7-10 ngày/lần. Khi cây nở hoa chú ý không tưới nước hoặc dinh dưỡng lên hoa. Khi cành hoa nở gần tàn cắt ngay cành hoa và tưới phân NPK 30-10-10 để dưỡng cây cho trà hoa sau.

Cây lan trồng trong chậu 12 cm được 5-6 tháng, khoảng cách giữa 2 đầu mút lá khoảng 18-20 cm, rễ ra đều xung quanh bầu là đủ tiêu chuẩn đưa vào xử lý phân hóa mầm hoa (thời gian từ khi ra ngôi đến khi đủ tiêu chuẩn đưa vào xử lý phân hóa mầm hoa là 18-20 tháng tuổi).

Có 2 cách xử lý phân hóa mầm hoa:

– Điều kiện xử lý: nhà lưới hiện đại có các thiết bị có thể điều khiển được nhiệt độ, ánh sáng.

– Thời gian bắt đầu xử lý 1/8 (âm lịch), khi xuất hiện mầm hoa được 3-5 cm (khoảng 45-50 ngày) thì dừng lại.

– Chế độ nhiệt độ: duy trì điều kiện nhiệt độ ban ngày 23-24 0C (12 giờ), ban đêm 15-16 0 C (12giờ).

– Chế độ ánh sáng: cường độ ánh sáng ban ngày 15.000 – 20.000 lux trong thời gian 6-8 giờ/ngày.

– Phân bón: sử dụng loại phân có NPK 6-30-30+TE, pha với tỷ lệ 1g/ lít nước, phun và tưới trước khi đưa vào xử lý 10 ngày và định kỳ 5-7 ngày 1 lần trong suốt quá trình xử lý. Bên cạnh đó bổ xung thêm B1 với tỷ lệ 2,5ml/ lít nước, 5-7 ngày phun 1 lần.

Cách 2: Xử lý trong điều kiện tự nhiên

– Điều kiện nơi xử lý: chọn những nơi có điều kiện sinh thái mát mẻ (nhiệt độ ban đêm 15-18 0C, nhiệt độ ban ngày 23-25 0 C, độ ẩm 75-80%), có số giờ chiếu sáng từ 6-10 giờ/ngày với cường độ ánh sáng trên 20.000 lux

– Chuẩn bị nhà che: làm nhà che kiên cố hoặc nhà che tạm đảm bảo được tránh mưa, nắng trực tiếp, có giàn để cây. Làm hướng nhà và giàn che theo hướng Bắc – Nam để tận dụng được nhiều ánh sáng mặt trời.

– Thời gian bắt đầu xử lý 1/8 (âm lịch), khi xuất hiện mầm hoa được 3-5 cm (khoảng 45-50 ngày) thì dừng lại và chuyển sang giai đoạn chăm sóc mầm hoa.

– Chế độ ánh sáng: cường độ ánh sáng ban ngày 15.000-20.000 lux, trong khoảng 6-8 tiếng/ngày, có thể điều chỉnh bằng việc kéo và thu lưới đen.

– Phân bón: sử dụng loại phân có NPK tỷ lệ 6-30-30+TE, 1g/ lít nước, phun và tưới trước khi đưa vào xử lý 10 ngày và định kỳ 5-7 ngày 1 lần trong suốt quá trình xử lý. Bên cạnh đó bổ xung thêm B1 với tỷ lệ 2,5ml/ lít nước, 5-7 ngày phun 1 lần.

Phun thuốc trừ nấm và vi khuẩn định kỳ 7 ngày/lần với liều lượng bằng ½ liều khuyến cáo trong tháng đầu. Sau đó phun theo khuyến cáo. Thường gặp các loại bệnh sau:

– Bệnh thối nâu: gây ra bởi vi khuẩn Pseudomonas cattleyae là bệnh phổ biến và trầm trọng nhất đối với lan Hồ điệp. Triệu chứng đầu tiên có thể nhìn thấy là trên lá có những đốm nhỏ màu vàng nhạt, sau đó vết thủng sâu hơn và biến thành màu nâu đậm sũng nước, càng ngày vết bệnh càng lan to dần.

– Bệnh thối mềm: do vi khuẩn Erwinia carottovota và E. Chrysanthemi gây ra. Thường thấy 1/3 lá bị nhũng và ăn sâu vào gốc gây thối cả gốc.

Cách lây bệnh: nước bắn tóe khi phun, sự tiếp xúc giữa cây với cây, các thao tác bằng tay khi tiếp xúc với cây (dịch chuyển, dọn vệ sinh vườn, nhổ cỏ, thu hoạch,…); các dụng cụ bị nhiễm khuẩn, bởi côn trùng, động vật thân mềm,…Môi trường ẩm ướt và thiếu ánh sáng là điều kiện thích hợp cho bệnh phát triển. Độ ẩm cao tạo điều kiện cho vi khuẩn xuất hiện, lan truyền, xâm nhiễm và sinh sản.

Kịp thời theo dõi những cây bị bệnh, tất cả lá, thân, rễ bị nhiễm bệnh phải ngay lập tức tập trung tiêu hủy khỏi vườn ươm. Sử dụng phân bón cân đối NPK. Luôn vệ sinh sạch sẽ môi trường xung quanh thông thoáng. Sử dụng các loại thuốc diệt khuẩn như: Starner, Streptomycin, Tetraciline,…

– Bệnh thán thư lá: vết bệnh như vòng tròn đồng tâm có màu vàng, bệnh nặng làm cho lá héo rũ. Sử dụng Score (Difennoconazole), Carbendazim,…

– Nhện đỏ: nhện tấn công ở mặt dưới lá. Những cây bị nhện gây đỏ gây hại còi cọc và rụng lá.Trên lá xuất hiện những đốm nhỏ lõm li ti màu nâu và tạo những màng nhện. Trên phát hoa và hoa cũng cùng triệu chứng tương tự.

Thời tiết khô, ấm là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nhện. Tăng độ ẩm và độ ẩm ướt trên lá, nhiệt độ thấp có thể hạn chế sự phát triển của chúng. Nếu bị nhiễm nhẹ, chỉ cần dùng vòi nước xịt mạnh thì có thể rửa trôi, làm giảm số lượng nhện. Nên phối hợp các loại thuốc và thường xuyên thay đổi thuốc để tránh kháng thuốc. Có thể sử dụng các loại thuốc như: Ortus, Alfamite,…

– Rệp sáp: các loài rệp đều có đặc điểm chung là tiết ra một lớp sáp che chở cho cơ thể, lớp này hình thành nên một lớp vỏ cứng, có hình dạng, màu sắc và kích thước khác nhau. Gây hại bằng cách chích hút. Nếu bị nhiễm nặng, lá bị vàng, rụng. Khi mật số rệp sáp cao, chúng còn là tác nhân tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển. Chúng gây hại chủ yếu vào mùa nắng.

Để phòng trừ, vệ sinh cho vườn thông thoáng, cắt bỏ các cây, lá có nhiều rệp; phun nước với áp lực mạnh rửa trôi rệp sáp; thường xuyên kiểm tra vườn để phát hiện và phun thuốc diệt trừ rệp kịp thời nhất. Phòng trị rệp sáp rất có hiệu quả khi dùng thuốc bảo vệ thực vật nhóm Lân hữu cơ, Bi-58, Suprathion 40EC, Xi-men 2SC, Dầu khoáng DC-Tron Plus 98.8EC,…phun trực tiếp vào chỗ có rệp đeo bám.

Hướng Dẫn Quy Trình Trồng Lan Hồ Điệp Trong Nhà Kính

Kỹ thuật điều khiển ra hoa Hồ Điệp hiện là bí quyết công nghệ của người Đài Loan. Chỉ với phương pháp điều khiển nhiệt độ, họ có thể kích thích Hồ Điệp tạo phát hoa với hiệu quả gần như tuyệt đối

Hiện nay, trong khi nước láng giềng là Thái Lan và Đài Loan đã rất thành công trong ngành công nghiệp hoa lan của họ thì người Việt Nam vẫn chỉ làm kinh tế với hoa lan một cách thụ động. Nghĩa là họ chỉ chờ hoa nở, nếu như gần dịp lễ thì trúng, còn nếu trong những ngày bình thường mà hoa nở quá nhiều thì dội chợ vì không thể bán kịp. Đặc biệt là đối với lan Hồ Điệp, một loại lan có giá trị thương mại cao, nhưng lại rất khó trồng và kiểm soát.

Kỹ thuật điều khiển ra hoa Hồ Điệp hiện là bí quyết công nghệ của người Đài Loan. Chỉ với phương pháp điều khiển nhiệt độ, họ có thể kích thích Hồ Điệp tạo phát hoa với hiệu quả gần như tuyệt đối.

I. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA LAN HỒ ĐIỆP TRONG NHÀ KÍNH

Có thể chia thành các giai đoạn chính dựa trên nhiệt độ như sau:

1) Giai đoạn đầu tiên (kéo dài 22-27 tuần): Đây là giai đoạn phát triển từ cây trong ống nghiệm cho đến khi thành cây trung. Khoảng thời gian quan trọng nhất trong giai đoạn này là lúc ra cây con, cần tránh thay đổi điều kiện sống của cây một cách quá đột ngột.

3) Giai đoạn thọ hàn (kéo dài 4-6 tuần): Cảm ứng ra hoa Hồ Điệp cần phản ứng stress nước nhẹ trong nhiệt độ thấp, từ 17 đến 25°C. Tại nhiệt độ này, hàm lượng Cytokinin nội sinh trong lá tăng lên, ngược lại với hàm lượng Acid Abscisic (Wen Yu Wang và cộng sự, 2002). Ngoài ra, cũng theo nghiên cứu của Wang năm 2003, số lượng cũng như hàm lượng protein trong mô lá tăng đáng kể trong giai đoạn này. Điều này cho thấy phản ứng ra hoa để đạt đến mức tối ưu cần được xảy ra trong điều kiện lạnh, nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác cũng đã nói lên điều này. Giai đoạn xử lý ra hoa kết thúc khi phần lớn các cây xử lý tạo phát hoa non khoảng 2-5cm.

Trong giai đoạn này, mục tiêu của người trồng là kéo dài phát hoa, tăng số lượng hoa, điều khiển cho hoa nở đồng thời và hoa xoay đều theo trục phát hoa.

Có thể chia giai đoạn này thành 3 giai đoạn nhỏ hơn:

Trước tiên, phát hoa cần được kéo dài ở nhiệt độ cao (26°C) trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó chuyển sang nhiệt độ thấp hơn (17-25°C) để cảm ứng chồi sinh sản, hạn chế tối đa số chồi sinh dưỡng. Ngay sau khi có một số nụ nhất định hình thành, để làm cho phát hoa nở đều, nhiệt độ được tiếp tục giảm xuống khoảng 19-20°C nhằm kéo dài thời gian bung cánh hoa của những hoa lan hồ điệp bên dưới, tạo điều kiện cho các hoa bên trên tiếp tục hình thành phát triển và bung cánh hoa trong cùng một khoảng thời gian ngắn.

Ảnh hưởng của nhiệt độ lên khoảng thời gian trung bình để hoa nở:

Nhiệt độ (°C) Thời gian từ khi phát hoa xuất hiện đến khi hoa đầu tiên nở (Ngày) 14 266 17 133 20 87 23 68 26 52 Ánh sáng trong quá trình phát triển của lan Hồ Điệp vào khoảng 500-1500 footcandles (đơn vị tính bằng ánh nến), thuộc loại tương đối cao so với đa số các loài lan khác (Dù vậy cây không chịu được ánh sáng trực tiếp).

Tuy nhiên so với nhiệt độ thì ánh sáng không ảnh hưởng nhiều đến sự ra hoa của Hồ Điệp mà chỉ quan trọng về yếu tố tích lũy dinh dưỡng thông qua quang hợp và ảnh hưởng đến đặc tính quang hướng động của hoa.

1) Thời gian nở: Tất cả các mùa trong năm. Có tất cả gần 1.700 kiểu dáng, màu sắc khác nhau.

2) Ánh sáng: Hồ điệp ưa bóng mát.

3) Nhiệt độ: Cây phát triển tốt ở nhiệt độ 20 – 35 độ C.

4) Độ ẩm: Trong khoảng 60 – 80%.

6) Cách tưới phân: 7 ngày tưới một lần với liều lượng quy định vào lúc sáng sớm hay chiều mát. Tưới qua một lần nước, 10 – 15 phút sau thì tưới phân để cây hấp thụ tốt nhất. Lan còn tưới phân NPK: 30-10-10. Lan trưởng thành dùng NPK 20-20-20. Khi cây nhú hoa dùng NPK 6.30.30 để cho hoa mập mạp, bền và sắc tươi hơn.

7) Phòng sâu bệnh: Phun định kỳ thuốc Dithan M trừ nấm bệnh, 7 ngày một lần.

* Chú ý: Khi hoa gần tàn, cây có hiện tượng yếu đi. Bạn nên cắt ngay cành hoa và tưới NPK 30-10-10.

Quy Trình Sản Xuất Hoa Lan Hồ Điệp Theo Quy Mô Công Nghiệp Tại Các Tỉnh Phía Bắc

THÔNG TIN CHUNG

1. Nhóm tác giả: ThS. Nguyễn Văn Tỉnh, TS. Đặng Văn Đông, ThS. Đinh Thị Dinh, TS. Trịnh Khắc Quang và cộng sự

2. Cơ quan tác giả: Viện Nghiên cứu Rau quả – Viện KHNN Việt Nam.

3. Nguồn gốc xuất xứ: 

Từ kết quả dự án “Hoàn thiện quy trình nhân giống và sản xuất một số giống lan hồ điệp ở quy mô công nghiệp”.

4. Phạm vi áp dụng:

Cho các tỉnh phía Bắc.

5. Đối tượng áp dụng: Các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia sản xuất hoa lan hồ điệp.  

QUY TRÌNH KỸ THUẬT

I. CÁC GIỐNG TRỒNG HIỆN NAY

Hiện nay ở Việt Nam thường trồng phổ biến một số giống hoa lan Hồ điệp sau:

– Giống hoa to: đường kính hoa 10 – 15 cm, có 8 – 12 bông hoa/cành, bao gồm các giống: Trắng lưỡi đỏ, mười giờ, V3, V31, đỏ, phấn hồng…

– Giống hoa trung bình: đường kính hoa 5 – 9 cm, có 10 – 15 bông hoa/cành, bao gồm các giống: hoàng hậu, vàng, trắng chấm đỏ, kẻ vân tím, đốm ngọc trai…

– Giống hoa mini: đường kính hoa 2 – 4 cm, có 20 – 50 bông hoa/cành, bao gồm các giống: Mãn Thiên Hồng, trắng mini, vàng mini…

Các giống lan trên được nhân bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào.

II. CHUẨN BỊ NHÀ LƯỚI, VẬT TƯ

2.1. Chuẩn bị nhà lưới

Nhà lưới để sản xuất hoa lan hồ điệp theo quy mô công nghiệp phải có diện tích tối thiểu 360m2, có thể trồng được 10.000 cây thương phẩm (chiều dài nhà lưới tối đa là 40 m để tăng hiệu quả sử dụng các thiết).

Nhà lưới được trang bị hệ thống lưới cắt nắng, hệ thống thông gió, hệ thống tản nhiệt cưỡng bức bằng tấm tản nhiệt, hệ thống quạt đối lưu, hệ thống rèm che mái, hệ thống rèm che hai bên sườn, hệ thống tăng nhiệt…

Thiết bị điều tiết nhiệt độ gồm thiết bị tăng nhiệt (hệ thống tăng nhiệt bằng hơi nóng), thiết bị hạ nhiệt (hệ thống quạt hút gió và tấm làm mát) và hệ thống quạt đảo gió, nếu có điều kiện có thể dùng máy điều hòa nhiệt độ 2 chiều, nhiệt độ có thể khống chế trong phạm vi trên 180C trong vụ đông, xuân và dưới 310C trong vụ hè, thu. Nhiệt độ trong nhà lưới có thể tăng hoặc giảm tới 7 – 100C so với nhiệt độ bên ngoài. 

Hệ thống điều khiển cường độ ánh sáng bằng lưới cản quang, cường độ ánh sáng có thể điều chỉnh đảm bảo < 20.000Lux.  

2.2. Chuẩn bị giá thể

Sử dụng giá thể là dớn (rêu) đã được tẩy trắng và phơi khô. Trước khi trồng cần xử lý bằng dung dịch vi sinh vật hữu hiệu EM với nồng độ 1ml/lít.

2.3. Chuẩn bị dụng cụ và chậu nuôi

Chậu dùng trồng Lan Hồ điệp phải là chậu màu trắng trong để cho rễ quang hợp và phát triển thuận lợi.

Cây con mới ra ngôi dùng chậu 1.5 (kích thước 5 x 5 cm), sau 4 tháng cây nhỡ chuyển sang chậu 2.5 (kích thước 8,3 x 8,3 cm), sau 12 tháng cây lớn đổi sang chậu 3.5 (kích thước 12 x 12 cm).

Ngoài ra cần chuẩn bị khay để cây, cần 3 loại khay: khay để cây nhỏ (chậu 1.5): 40 cây/1 khay, khay để cây nhỡ (chậu 2.5): 12 cây/1 khay, khay để cây lớn (chậu 3.5): 8 cây/1 khay.

III. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC

3.1. Giai đoạn cây con (từ ra ngôi đến 4 tháng tuổi)

Cây con sau khi ra ngôi, dùng giá thể bao bọc xung quanh rễ rồi trồng trong chậu 1.5, độ chặt của giá thể vừa phải, mặt trên của giá thể cách miệng chậu 0,5 cm, định mức 1 kg giá thể khô trồng được 200 cây.

Tưới nước: giai đoạn đầu (4 tuần kể từ sau ra ngôi) chỉ cần tưới nhẹ trên bề mặt lá, khi thấy đỉnh rễ xuất hiện ở vách chậu và lá mới xuất hiện thì lượng nước tưới lớn hơn từ 1/3 – 1/2 chậu trong thời gian khoảng 8 tuần, đến khi cây có 2 – 2,5 lá mới và rễ phát triển xuống đáy chậu thì tưới với lượng nước 1/2  - 100% chậu. 

Cường độ ánh sáng trong 4 tuần đầu khống chế ở 5.000 lux, sau đó tăng dần, tối đa 8.000 lux sau 4 tháng. Nhiệt độ tốt nhất ở khoảng 25 – 310C.

Sử dụng phân bón HT-Orchid (N-P205-K20+TE = 30-10-10+TE), pha với tỷ lệ 3 gam/10 lít nước, phun và tưới định kỳ 7 – 10 ngày 1 lần.

3.2. Giai đoạn thay chậu lần 1 (từ 4 tháng tuổi đến 8 – 9 tháng tuổi)

Cây con trồng trong chậu 1.5, sau 4 tháng, khoảng cách giữa 2 đầu mút lá khoảng 12 – 15cm, cần tiến hành thay chậu lần thứ nhất là chậu 2.5. 

Cách thay chậu: lấy cây con (bao gồm cả giá thể) ra khỏi bầu, dùng giá thể bọc kín rễ rồi đặt nhẹ vào chậu nhựa 2.5, đảm bảo bầu không được chặt và cũng không lỏng quá để thoát nước tốt, giá thể cách mép trên của chậu khoảng 1 cm, mặt bầu phẳng, không gồ ghề, định mức 1 kg giá thể khô trồng được 90 cây

Tưới nước: tương tự như cách tưới ở trên, giai đoạn đầu (4 tuần kể từ sau khi đổi bầu) chỉ cần tưới nhẹ trên bề mặt lá, khi thấy đỉnh rễ xuất hiện ở vách chậu và có lá mới xuất hiện thì lượng nước tưới lớn hơn từ 1/3 – 1/2 chậu trong thời gian khoảng 10 tuần, đến khi cây có 2 – 2,5 lá mới và rễ phát triển xuống đáy chậu thì tưới với lượng nước 1/2  - 100% chậu. 

Cường độ ánh sáng trong 4 tuần đầu thay chậu duy trì ở 7.000 lux, sau đó tăng dần, tối đa 12.000 lux sau 8 – 9 tháng, nhiệt độ từ 25 – 31oC.

Sử dụng phân bón HT-Orchid (N-P205-K20+TE = 20-20-20+TE) với tỷ lệ 4 gam/10 lít nước, phun và tưới định kỳ 5 – 7 ngày 1 lần.  

3.3. Giai đoạn thay chậu lần 2 (cây 8 – 9 tháng tuổi)

Cây con trồng trong chậu 2.5, sau 4 – 5 tháng, khoảng cách giữa 2 đầu mút lá khoảng 18 – 20cm, cần tiến hành thay chậu lần thứ hai là chậu 3.5. 

Cách thay chậu: tương tự như cách thay chậu lần thứ nhất, đảm bảo giá thể vừa phải, giá thể cách mép trên của chậu khoảng 1 cm, định mức 1 kg giá thể khô trồng được 45 cây.

Tưới nước: tưới tương tự như giai đoạn thay chậu lần thứ nhất. 

Cường độ ánh sáng trong 4 tuần đầu thay chậu duy trì ở 10.000 lux, sau đó tăng dần và đạt tối đa 20.000 lux sau 4 – 5 tháng, nhiệt độ từ 25 – 31oC.

Sử dụng phân bón HT-Orchid (20-20-20+TE) với tỷ lệ 4 gam/10 lít nước, phun và tưới định kỳ 5 – 7 ngày 1 lần.  

IV. XỬ LÝ PHÂN HÓA MẦM HOA

Cây lan trồng trong bầu 3.5 được 4 -5 tháng, khoảng cách giữa 2 đầu mút lá khoảng 25 – 30 cm, rễ ra đều xung quanh bầu là đủ tiêu chuẩn đưa vào xử lý phân hóa mầm hoa (thời gian từ khi ra ngôi đến khi đủ tiêu chuẩn đưa vào xử lý phân hóa mầm hoa là 18–20 tháng tuổi, để có hoa nở vào Tết thì cần ra ngôi cây từ tháng 1–2 năm trước).

Lan Hồ điệp thường ra hoa tự nhiên từ tháng 3 đến tháng 5, đa số các giống không ra hoa vào dịp Tết nguyên đán. Muốn có hoa vào dịp Tết cần phải xử lý điều khiển ra hoa. Có 2 cách xử lý phân hóa mầm hoa:

4.1. Cách 1: Xử lý nhân tạo

– Điều kiện xử lý: nhà lưới hiện đại có các thiết bị có thể điều khiển được nhiệt độ, ánh sáng.

– Thời gian bắt đầu xử lý 1/8 (âm lịch), khi xuất hiện mầm hoa được 3 – 5 cm (khoảng 45 – 50 ngày) thì dừng lại.

– Chế độ nhiệt độ: Duy trì điều kiện nhiệt độ ban ngày 230C – 240C (12 tiếng), ban đêm 150C – 160C (12 tiếng). 

– Chế độ ánh sáng: Cường độ ánh sáng ban ngày 20.000 – 25.000lux trong thời gian 6 – 8 tiếng/ngày.

– Phân bón: sử dụng loại phân HT-Orchid (9-45-15+TE), pha với tỷ lệ 4gam/10 lít nước, phun và tưới trước khi đưa vào xử lý 10 ngày và định kỳ 5 – 7 ngày 1 lần trong suốt quá trình xử lý. Bên cạnh đó bổ xung thêm B1 với tỷ lệ 2,5ml/10 lít nước, 5 – 7 ngày phun 1 lần.

4.2. Cách 2: Xử lý trong điều kiện tự nhiên

– Chuẩn bị nhà che: Làm nhà che kiên cố hoặc nhà che tạm đảm bảo được tránh mưa, nắng trực tiếp, có giàn để cây. Làm hướng nhà và giàn che theo hướng Bắc – Nam để tận dụng được nhiều ánh sáng mặt trời.   

– Thời gian bắt đầu xử lý 1/8 (âm lịch), khi xuất hiện mầm hoa được 3 – 5 cm (khoảng 45 – 50 ngày) thì dừng lại và chuyển sang giai đoạn chăm sóc mầm hoa.

– Chế độ ánh sáng: Cường độ ánh sáng ban ngày 20.000 – 25.000lux, trong khoảng 6 – 8 tiếng/ngày, có thể điều chỉnh bằng việc kéo và thu lưới đen.

– Bón phân: sử dụng loại phân HT-Orchid (9-45-15+TE), pha với tỷ lệ 4gam/10 lít nước, phun và tưới trước khi đưa vào xử lý 10 ngày và định kỳ 5 – 7 ngày 1 lần trong suốt quá trình xử lý. Bên cạnh đó bổ xung thêm B1 với tỷ lệ 2,5ml/10 lít nước, 5 – 7 ngày phun 1 lần. 

– Các kỹ thuật khác: trường hợp nhiệt độ trong quá trình xử lý lớn hơn 250C thì phải có biện pháp làm giảm: cuộn nilon hai bên sườn nhà lưới lên, che lưới đen. Nếu nhiệt độ thấp hơn 150C cần hạ nilon hai bên sườn nhà lưới xuống và thắp bóng điện hoặc dùng hơi nóng từ nước hay lò đốt than để tăng nhiệt độ.  

V. CHĂM SÓC GIAI ĐOẠN SAU PHÂN HÓA MẦM HOA

5.1. Điều khiển chế độ nhiệt độ, ánh sáng

Chế độ nhiệt thích hợp nhất cho sự sinh trưởng giai đoạn sau phân hóa mầm hoa là 18 – 250C. Trong điều kiện tự nhiên miền Bắc Việt Nam rất khó đạt được yêu cầu trên, vì vậy cần đưa cây sau phân hóa mầm hoa vào điều kiện nhà lưới có các thiết bị điều khiển nhiệt độ để đảm bào chất lượng hoa thương phẩm. 

Ví dụ điều khiển nhiệt độ trong nhà lưới có diện tích 500 m2 như sau:

Nhiệt độ ngoài trời (0C) Phương pháp điều chỉnh để đạt nhiệt độ 18 – 250C

12 – 20 Đóng lưới nilon xung quanh nhà lưới xuống, cho 3 đường ống thổi hơi nóng vào

20 – 30 Đóng lưới nilon xung quanh nhà lưới xuống, cho 1 quạt hoạt động, không mở nước ở tấm làm mát

Khi nhiệt độ ngoài trời và nhiệt độ trong nhà lưới phù hợp ở ngưỡng từ 18 – 250C thì mở nilon xung quanh nhà lưới, các thiết bị sưởi ấm và làm mát không cần hoạt động.

Cường độ ánh sáng 20.000 – 25.000lux, trong thời gian 6 – 8 tiếng/ngày.

Cây lan Hồ điệp sau khi đã được xử lý phân hoá mầm hoa, thời gian từ khi xuất hiện mầm hoa đến khi hoa đầu tiên nở là 110 – 115 ngày, căn cứ vào đó để điều khiển sinh trưởng nở hoa vào đúng dịp Tết.  

5.2. Bón phân

Loại phân thích hợp nhất cho lan Hồ điệp giai đoạn sau phân hoá mầm hoa là HT-Orchid (10 – 20 – 20+TE), với liều lượng 4gam/10 lít nước, cách 5 – 7 ngày phun 1 lần. 

5.3. Tưới nước

Thường xuyên kiểm tra độ ẩm giá thể, không nên để giá thể khô quá hoặc ướt quá, tưới vào lúc sau 10h sáng và trước 3h chiều, nếu điều kiện cho phép sau khi tưới nước nên để cho cây được thoáng khí thông gió, để cho nước đọng trên mặt lá bị bay hơi hết, giảm sự phát sinh của bệnh hại. Sử dụng nước tưới sạch, nước được lọc có pH từ 6 – 6,5, EC từ 0,03 đến 0,1.

5.4. Quản lý kỹ thuật vườn lan

Khi sản xuất hoa lan Hồ điệp theo quy mô công nghiệp cần có biện pháp sắp xếp chiều cao mầm hoa theo thứ tự tăng dần theo chiều dài nhà lưới (mầm hoa thấp để gần quạt hút gió và chiều cao mầm tăng dần về phía tấm làm mát) để khi thu hoạch sẽ cho sản phẩm hoa lan nở đồng đều nhau. 

Khi cành hoa dài 15 – 20cm, cần dùng que thép và kẹp để cố định mầm hoa cho mọc thẳng ngay từ gốc. Khi cành hoa dài 30 – 40cm sẽ xuất hiện nụ, khi cành dài 60 – 70cm hoa bắt đầu nở (lúc đó cách thời điểm phân hoá mầm hoa khoảng 110 – 115 ngày).

VI. PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH HẠI CHÍNH 

6.1. Bệnh do nấm

6.1.1. Bệnh thán thư (Collectotrichium sp)

– Triệu chứng: Vết bệnh có màu nâu đen, màu xám nhạt, hình trứng hoặc hình không quy cách, bệnh gây hại ở lá già và lá bánh tẻ làm cây sinh trưởng kém.

– Nguyên nhân: do nấm Collectotrichium sp

– Phòng trừ:

+ Kịp thời ngắt bỏ lá già, lá khô, lá bị thối nát, bị rét hại và bị cháy do nhiệt độ cao để loại bỏ nguồn bệnh.

+ Khi cây bị bệnh cần dùng dụng cụ đã được khử trùng cắt bỏ chỗ có bệnh, bôi thuốc sát khuẩn vào vết thương. Nếu bệnh nặng thì loại bỏ cả cây.

+ Phun định kỳ thuốc phòng bệnh: Boocdo 1%, Topsin 5 – 10 ml/10 lít.

6.1.2. Bệnh thối đen (Phytophthorapalmivora)

– Triệu chứng: Khi bệnh phát sinh sẽ làm cho rễ, thân bị thối, đổ cây và có thể tác hại huỷ diệt cả cây. 

– Nguyên nhân: do nấm Phytophthorapalmivora

– Phòng trừ:

+ Làm cho nhà vườn thông gió tốt

+ Giữ không để cho cây bị tổn thương, bị xây sát, nhất là khi thay chậu. Nếu có vết thương phải khử trùng ngay.

+ Khi có bệnh phát sinh phải khống chế nước nghiêm ngặt, không để cho cây bị ướt.

+ Khi cây trưởng thành bị bệnh ở lá cần dùng kéo được khử trùng cắt bỏ lá bị bệnh, bôi thuốc vào vết cắt như dung dịch Natri phenol. Nếu bệnh nặng thì huỷ bỏ cả cây.

+ Dùng thuốc: Score 250EC 7-10ml/bình 8 lít, Rhidomil Gold 68%WP 25g/bình 10 lít, Daconil 10ml/bình 8 lít.

6.2. Bệnh do vi khuẩn

6.2.1. Bệnh thối nhũn (Pseudomonas gadioli)

– Triệu chứng: Ở nơi bị bệnh, biểu bì và thịt lá rời nhau ra, khi bị lực tác động (tưới nước, bón phân) rất dễ rách. 

– Nguyên nhân: do vi khuẩn Pseudomonas gadioli, bệnh phát triển mạnh nhất từ tháng 4 đến tháng 7, khi nhiệt độ và ẩm độ cao. 

– Phòng trừ:

+ Đảm bảo nguồn nước tưới sạch, không có vi khuẩn gây bệnh

+ Không nên đặt chậu dầy đặc, cần có khoảng cách hợp lý, bón đạm vừa đủ và đảm bảo đủ ánh sáng cho vườn để tăng sức đề kháng cho cây.

+ Tăng độ thông thoáng của vườn, giảm độ ẩm, nhiệt độ, sau khi tưới nước không để nước đọng trên lá. 

+ Tiêu huỷ ngay cây bị bệnh, khử trùng khay và giàn để cây.

+ Phun thuốc kháng sinh: 1g Streptomicin + 1g Tetracyclin hoà trong 1,5 lít nước. Ngừng tưới khi xử lý bệnh 1 ngày.

6.3. Sâu hại

6.3.1. Rệp, rệp sáp

– Triệu chứng: lá bị hại nặng, bị vàng khô héo và rụng. 

– Phòng trừ:

+ Khi mới phát sinh dùng vải ướt lau, loại bỏ trứng sâu hoặc cắt bỏ chỗ lá bị gây hại.

+ Phòng trừ bằng sinh vật. Bọ nhảy là thiên địch của rệp

+ Dùng tấm bìa màu vàng dẫn dụ rồi diệt rệp

+ Dùng thuốc phun: Supracide hoặc Polytrin với lượng 10ml/10 lít nước.

6.3.2. Nhện hại

– Triệu chứng: Chủ yếu là nhện đỏ, nhện vàng. Khi bị nặng làm cho lá bị cháy vàng lõm xuống héo đi và biến dạng, cuối cùng làm cho lá vàng khô và rụng.

– Phòng trừ:

+ Dùng nước xà phòng phun lên lá tạo thành một màng mỏng có thể phòng và hạn chế nhện ký sinh

+ Dùng thuốc: Aramite 15% 15g/10 lít nước, Kelthane 2% 15g/10 lít nước, Brightin 10ml/10 lít nước.

VII. THU HOẠCH, ĐÓNG GÓI VÀ VẬN CHUYỂN

Khi cây có từ 1 – 3 nụ nở là lúc có thể tiêu thụ. Khi đóng thùng cần phải bao gói từng cành bằng giấy mềm rồi xếp nằm, lần lượt theo chiều của cành hoa vào thùng carton và lấy dây buộc hoặc băng dính cố định chậu hoa vào cạnh thùng. Trong quá trình vận chuyển cần đảm bảo điều kiện mát và đủ thoáng cho cây, nếu trong xe lạnh để ở nhiệt độ từ 15 – 200C và thời gian trong thùng không quá 4 ngày để tránh thui, rụng nụ hoa. 

Quy Trình Trồng Lan Cattleya

Quy trình trồng lan Cattleya .Ldl

I. Đặc điểm sinh trưởng

Giống Cattleya có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, phần lớn ở vùng núi, độ cao từ 600 – 1800 m. Gồm 60 loài nguyên thuỷ và vô số loài lai trong cùng một giống hay với giống khác. Chúng được gọi là hoàng hậu của lan vì vẻ đẹp huy hoàng và đa dạng.

Cattleya là loài phụ sinh có giả hành cao trung bình, tròn hay hơi dẹp, thường to mập ở giữa, hai đầu hẹp lại. Các giả hành hơi khít nhau, lúc non có bẹ màu xanh bọc lại, lúc già các bẹ khô trở nên có màu trắng bạc. Ở mỗi đỉnh của giả hành có 1-2 lá khá to, dày, dai, bền, không có bẹ lá. Phía trong lá, ngay đỉnh của giả hành, khi có hoa thì có một cái mo mà ta gọi là lưỡi mèo bao bọc nụ hoa bên trong. Phát hoa mang từ 1-10 hoa to, có màu tím, vàng, trắng. Mỗi hoa có 3 lá đài hầu như bằng nhau, và hai cánh hoa bên luôn to hơn lá đài, có khi rất to. Môi to, 3 thuỳ với thuỳ bên rộng lớn có mép cong về trên che kín trụ, thuỳ giữa trải ra rộng lớn, mép nhăn hay gợn sóng, đôi khi không phân biệt được 3 thuỳ rõ rệt. Trụ khá cao, hơi cong, đầu trụ là nhị đực có nắp che. Bao phấn gồm 2 buồng, 4 khối phấn xếp thành từng cặp, phấn khối có hình đĩa màu vàng, mỗi cái có một vỉ phấn cong nhỏ. Người ta thường phân ra hai nhóm:

– Nhóm 1 lá: chỉ có một lá trên mỗi giả hành, thường mang từ 2-6 hoa lớn, môi sặc sỡ.

– Nhóm 2 lá: thường mang 2 lá trên mỗi giả hành, có hoa nhỏ hơn nhưng nhiều hơn (hoa chùm), môi nhỏ hơn và dày hơn.

II. Cách trồng Cattleya:

Thường trồng Cattleya vào chậu đất nung chín với chất trồng là dớn, than, gạch bể, xơ dừa, rêu Sphagnum.

Đầu tiên phải làm thoáng đáy chậu bằng cách để các cục than to, hay những miếng gạch vụn hoặc những que tre hay gỗ gác chéo ở phần đáy, bên trên là chất trồng.

Chất trồng thường phải được ủ xử lý và phối trộn với 10% phân chuồng hoai mục theo thể tích và khoảng 1-2% super lân. Đối với vùng có khí hậu lạnh như Đà Lạt thì giá thể tránh quá thông thoáng vì nhiệt độ lạnh vào ban đêm sẽ làm cho các đầu rễ đui đi và bộ rễ teo dần, cây phát triển kém, ngược lại giá thể quá bí thì cây dễ bị thối rễ vào mùa mưa. Một giá thể với phần đáy thật thông thoáng và phần bề mặt hơi kín thì rất tốt cho sự phát triển của Cattleya.

Đối với cây con được tạo ra qua con đường nuôi cấy mô thì phải trải qua giai đoạn nuôi cây ở nhà ươm, khi cây phát rễ cứng cáp thì mới trồng vào chậu.

Kỹ thuật trồng cây ống nghiệm:

Đối với Cattleya được tạo ra bằng con đường nuôi cấy mô thì sau khi cây được rút ra khỏi ống nghiệm cần thao tác nhẹ nhàng tránh làm tổn thương rễ hay đứt rễ, rửa thật sạch các vết thạch còn lại trên rễ xong ngâm toàn bộ cây vào dung dịch thuốc Kasumin 2gam/lít khoảng 5 phút. Vớt nhẹ cây ra và để ráo trong mát chuẩn bị trồng. Ở Đà Lạt chất trồng phổ biến là dớn mút, dớn này cần được ngâm nước và xả kỹ từ 2-3 lần cho hết độ chát có trong dớn, xong xé nhỏ. Dùng dớn xé nhỏ này bó xung quanh rễ cây cấy mô với độ rộng và dài gấp đôi rễ, xếp nhẹ nhàng những cây này vào khay mà dưới đáy đã trải sẵn một lớp dớn để không làm tổn thương rễ.

Chăm sóc : Cây nuôi cấy mô cần giữ ẩm liên tục trong vòng 7 -10 ngày đầu tiên sau khi trồng, độ ẩm khoảng 75-80 %, không khô quá vì cây mất nước sẽ chết, và không ẩm quá vì dễ gây thối cả cây. Tuyệt đối không được tưới vào buổi tối vì sẽ làm cho cây dễ thối nhũn, thường dùng bét phun sương khoảng 4-5 lần trong ngày và tuỳ thuộc vào thời tiết. Cây phải được đặt vào nhà có mái che bằng tôn sáng với độ sáng khoảng 40 -50% là thích hợp. Sau khoảng 15 ngày khi thấy đầu rễ phát triển thì giảm dần lượng nước phun cho đến khi bình thường. Trong thời gian này tiến hành phun phân bón lá có thành phần N:P:K=30:10:10 khoảng 5ngày/ lần. Tiến hành phun thuốc phòng nấm như Ridomil Gold 20g/ 10 lit, 1 tuần phun 1 lần, chú ý phun thuốc diệt côn trùng khi phát hiện thấy hoặc theo định kỳ 15 ngày/ lần (có thể là ốc sên, nhớt, ruồi nhỏ…). Chăm sóc trong nhà ươm khoảng thời gian từ 1,5 -3 tháng là có thể chuyển cây mô này vào chậu lớn và chăm sóc bình thường.

Đối với cây được tách chiết thì tách chiết sang chậu vào lúc chồi mới phát triển khi có rễ ló ra ở gốc. Nếu cây có nhiều hướng phát triển thì tách chúng ra 2 hay nhiều đơn vị để trồng. Mỗi hướng là một đơn vị, mỗi đơn vị ít nhất phải có một giả hành già với một chồi mới thì cây phát triển tốt hơn. Trong trường hợp có một chậu lớn và sang qua một chậu lớn hơn, muốn cho cây phát triển thành nhiều hướng thì sau khi thay chậu, cây phục hồi thì dùng dao tách 2 tép một và để nguyên như vậy giúp cây phát triển thành nhiều hướng, có thêm nhiều chối mới cùng trưởng thành 1 lúc nên khi có hoa sẽ cùng một lượt rất sum sê. Cattleya chỉ cho hoa ở các giả hành mới, và các giả hành cũ dù có xanh tốt vẫn không cho hoa.

Khi sang chậu hay tách chiết phải cắt bỏ rễ già chết, còn các rễ khoẻ phải giữ gìn cẩn thận, nhất là phần đầu rễ ở các chồi mới không được đụng chạm vào. Buộc cọc tỳ sát mép chậu cho thật vững, hướng phát triển vào giữa và phần căn hành phải phơi bày lên mặt chất trồng. Lớp mặt trên của chất trồng cũng phải được nén chặt không để cho cây lay động làm tổn thương đến sự phát triển của rễ. Đa số Cattleya chống chịu với mọi điều kiện miễn sao rễ thoáng, chất trồng không hư mục làm thối rễ. Ẩm độ thích hợp là 50 – 80%. Lúc cây phát triển cần tưới nước nhiều hơn so với khi cây nghỉ. Sự nghỉ ở Cattleya rất khó quan sát, những cây Cattleya có hoa vào mùa mưa thì thường có kỳ nghỉ kéo dài 6 -8 tuần, lúc đó các giả hành đã phát triển đầy đủ, không có chồi mới, không có rễ mới hoạt động. Trái lại những cây Cattleya ra hoa vào mùa khô thì không có sự nghỉ.

Cattleya cần nhiều ánh sáng, ánh sáng phù hợp là khoảng 50% trở lên. Nếu Cattleya khó ra hoa thì tăng ánh sáng và tăng bón phân có nhiều lân. Biểu hiện của một cây lan thừa ánh sáng là lá có thể bị cháy hoặc màu vàng, cây lùn thấp và rất cứng cáp, ngược lại cây thiếu ánh sáng có màu lá xanh đậm, dáng cây yếu đuối và rất dễ ngã. Cây lan Catttleya có màu xanh nhạt ánh màu vàng hay tím là cây được trồng nơi có vừa đủ ánh sáng. Phân bón cho Cattleya thường có nồng độ thấp hơn so với phân bón cho Dendrobium, Vanda hay Cymbidium. Cattleya là loại lan có thể sống được ở vùng nóng và vùng ôn đới và đặc biệt đây là giống rất thích nghi với điều kiện khí hậu Việt Nam với một biên độ rất rộng. Chính vì thế nó được trồng và phát triển mạnh ở khắp nơi: Các tỉnh phía Nam, các tỉnh phía Bắc và ngay cả trên vùng cao nguyên.

Nhiệt Độ lý tưởng cho Cattleya là 210C vào Ban ngày và 160C vào ban đêm. Vùng thích hợp cho loại này là vùng Bảo Lộc. Dù vậy lan Cattleya vẫn có thể sinh trưởng và phát triển ở một nhiệt độ cao hơn nhiệt độ lý tưởng là 80C vào ban ngày và 50C vào ban đêm. Nhưng nhiệt độ lý tưởng vẫn giúp cây sinh trưởng với điều kiện tốt nhất, cụ thể là ở Đà lạt. Mặc dầu các nhà vườn ít sử dụng phân bón, nhất là phân vô cơ nhưng Cattleya vẫn phát triển với kích thước lớn hơn so với cùng loài trong điều kiện ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra lan Cattleya cũng phát triển tốt ở những vùng có khí hậu mùa đông với nhiệt độ 130 C vào ban ngày và 100C vào ban đêm. Tuy nhiên ở vùng lạnh mát nên trồng loài Sophro Cattleya và loài Sophrolaelio Cattleya thì sự ra hoa của các loài này đều đặn hơn. Điều này là do các giống lan Cattleya được xuất phát từ 2 nguồn: Một nguồn từ vùng khí hậu nóng ẩm của Brazin và một nguồn từ vùng đồi núi cao nguyên ở Columbia và Mexico.

Ở vùng Đà lạt vì thường xuyên có không khí ẩm nên chỉ tưới nước 1-2 lần/ tuần tuỳ theo ẩm độ của giá thể vào mùa nắng và hoàn toàn không tưới nước vào mùa mưa.

Nhu cầu phân bón đối với loài lan Cattleyya: Các loài lan Cattleya có thể ra bông bất kỳ mùa nào trong năm với điều kiện bộ phận sinh dưỡng đủ khả năng phát triển thành một giả hành mới. Chính vì thế việc bón phân cho lan ngoài mục đích duy trì sự sinh trưởng và phát triển cho lan còn nhằm điều khiển sự ra hoa các loài thuộc giống này (trừ một số rất ít ra hoa theo mùa).

Cattleya là loài thực vật sống phụ sinh do đó việc bón phân cho lan bằng phương pháp phun sương thì hiệu quả hơn nhiều so với phương pháp tưới thẳng vào giá thể trong chậu. Phân sử dụng là phân bón lá có công thức N:P:K là 30-10-10 được phun theo nồng độ khuyến cáo của từng loại trên nhãn với cường độ là 2 lần/ tuần. Khi các giả hành chớm ra nụ hoa thì sử dụng phân bón có công thức là 10-20-20 với cường độ như trên.

Nếu cây Cattleya của bạn đã đủ sức khoẻ và bắt đầu mọc chồi mới, bạn muốn cho nó trổ bông vào 3 tháng tới thì dùng phân 6-30-30 phun cho cây 2lần/tuần. Có thể dùng phân vô cơ hỗn hợp với phân hữu cơ với nồng độ loãng hay các sản phẩm phân bón lá có nguồn gốc sinh học như: Rong biển, tinh cá, agostim… rất tốt cho quá trình sinh trưởng của cây. Vitamin B1 với nồng độ 0,01% phun 1lần/tuần cũng có tác dụng thúc đẩy sự tăng trưởng của cây.

Trước mùa nghỉ tăng trưởng của Cattleya 1 tháng, trong tháng 3 nên bón cho lan loại phân 10-20-30 để tạo sự cứng cáp cho cây trong mùa nghỉ tháng 4, và trong tháng 4 nên ngưng tưới hoàn toàn.

Mùa nghỉ của Cattleya: Cattleya là giống lan có mùa nghỉ, ở điều kiện khí hậu Việt Nam ta nên cho cây nghỉ mỗi năm 1 tháng. Mùa nghỉ của Cattleya ở các tỉnh phía Nam là trong suốt tháng 4, các tỉnh ở phía Bắc trong tháng 1, các tỉnh từ Thuận Hải đến Thừa Thiên Huế thì mùa nghỉ trong tháng 8.

Trong mùa nghỉ, cây không đòi hỏi dinh dưỡng và không tưới nước (vì thế mùa này nên để cây vào chỗ khô và mát) nên chỉ duy trì lượng nước đủ để cây sống, tăng độ che sáng lên 10% và nhiệt độ thích hợp trong mùa nghỉ càng thấp càng tốt, khoảng 100C cho vùng lạnh và 250 C cho vùng nóng.

Thay chậu và nhân giống Cattleya:

Lan Cattleya phát triển rất nhanh do đó việc thay chậu phải được thực hiện tối đa là sau 2 năm kể từ lúc trồng. Việc thay chậu nên tiến hành đồng thời với việc nhân giống. Khi quan sát thấy giả hành bắt đầu mọc ra khỏi mép chậu thì nên thay chậu. Việc thay chậu tốt nhất nên tiến hành vào đầu mùa mưa thì cây sẽ phát triển rất mạnh.

Nên cắt tách cây vào lúc 4 tháng trước mùa nghỉ và để nguyên tại chỗ, trét sơn vào vết cắt và phun hỗn hợp BA 1ppm +vitamin B1 20mg/l. Khi đến mùa nghỉ mỗi cây tách sẽ có một giả hành trưởng thành để chịu đựng trong mùa nghỉ, khi mùa mưa đến ta tách mỗi cây và đem trồng sang chậu mới. Muốn thay chậu Cattleya ta ngâm chậu vào một chậu nước có pha thuốc trừ rêu, trong vòng từ nửa giờ đến 1giờ các rễ sẽ tróc ra. Dùng kéo nhọn đã khử trùng cắt bỏ những rễ thối và những rễ quá dài chỉ chừa lại một đoạn 10cm. Cuối cùng cột chặt cây lan vào chậu mới và đặt chậu vào chỗ ẩm mát cho đến khi ra rễ. Lúc đó mới bắt đầu cho giá thể vào chậu và đưa chậu về vị trí cũ. Có thể dùng dung dịch NAA 1ppm phun vào giai đoạn đầu.

Lan Cattleya có thể nhân giống bằng cách tách chiết 3 giả hành một, nếu tách chiết dưới 3 giả hành thì cây sẽ phát triển rất yếu. Nếu Cattleya bị bệnh thì mắt trên căn hành sẽ bị thối đi, cây sẽ không tạo chồi ngọn và sự tạo thành chồi bằng hạt gạo hình thành trên giả hành nơi tiếp xúc với căn hành cây sẽ rất yếu và khó có thể ra hoa được.

Phòng trừ sâu bệnh cho Cattleya

I. Sâu hại

1. Rệp son (Scale insects): Là loại rệp có vỏ màu nâu che chở cho cơ thể rệp. Các loài này thường bám vào lá, giả hành và ngay cả trên căn hành để hút nhựa. Nguy hiểm hơn là các loài này sẽ bám vào những mắt ngủ hút nhựa làm cho các mắt ngủ bị chết đi. Các loài này phải phòng trừ thường xuyên nếu không sẽ sinh sản rất nhanh và gây tác hại cho vườn không ít. Phòng trừ bằng cách tiêu diệt bằng tay, dùng các thuốc mạnh như Regent, Lannate, polytrin,… theo nồng độ khuyến cáo.

2. Dán cánh và bọ trĩ (Thrips): Thường xuất hiện trong các giá thể có cấu tạo bằng xơ dừa, vỏ cây mục, dớn vụn hoặc do sử dụng quá nhiều các loại phân hữu cơ dưới dạng xác như: Bánh dầu, phân bo,… có thể dùng các loại thuốc sát trùng như Bassa, confidor, … sử dụng nồng độ theo khuyến cáo trên bao bì , nên phun ngừa 2lần/ tháng.

3. Ốc sên, nhớt: Phá hoại rễ non và tiết ra những chất làm thối các chồi mới mọc. Cần rải thuốc diệt sên nhớt vào những khi có thời tiết quá ẩm.

4. Nhện đỏ (red spider mites): Là côn trùng rất nhỏ, không dài hơn ½ mm, dưới kính lúp quan sát có dạng như con rệp, có 8 chân, nhện khi còn non thường có màu vàng, con trưởng thành chuyển sang màu đỏ. Xuất hiện nhiều vào mùa khô, ít hơn vào mùa mưa. Sống ẩn nấp dưới lá già thành từng đám, nơi nhện ẩn nấp lá biến thành những chấm trắng nhỏ sau đó nối với nhau biến thành màu đen và héo tàn. Rệp đỏ sinh sôi và phát triển rất nhanh, khi phát hiện phải diệt trừ ngay nếu không cây sẽ ngừng phát triển. Phải dùng thuốc thường xuyên và liên tục để diệt cả con già và con đẻ trứng, các thuốc thường dùng để phòng trừ nhện đỏ là: Commite, Nissorun … dùng theo liều lượng khuyến cáo trên bao bì và thời gian xịt tốt nhất vào lúc 8-9 giờ sáng khi có nắng thì hiệu quả tiêu diệt cao.

5. Rầy bông (Mealy bugs): Có cơ thể mềm nhũn, bên ngoài được bao bọc bằng một lớp màu trắng giống như bông và bóng như sáp. Trong phân của rệp bột này để nhử kiến đến và tha trứng đi khắp nơi và là nguồn thức ăn của nấm bồ hóng (Sacty molds). Nấm này không làm hại đến cây, trên lá những nơi có nấm mọc thì không nhận được ánh sáng để quang hợp. Khi rệp bột hút nhựa cây lan, chúng thường tiết ra một số chất độc làm cho cây lan ngừng phát triển, xung quanh chỗ nấm mọc có màu vàng và lá sẽ khô héo. Rệp bột được trị bằng các loại thuốc sâu, rệp nhưng phải pha cùng với chất dính để phun mới có hiệu quả.

II. Bệnh do nấm:

1. Bệnh thối đen (black rot)

Thường gặp vào mùa mưa ở những vườn có độ ẩm cao hoặc tưới nước quá nhiều. Bệnh này thường gây thiệt hại nghiêm trọng, cây thường chết nhiều và nhanh chóng, nhất là đối với cây con. Bệnh này thường xuất hiện ở gốc và rễ sau đó lan dần lên thân cây. Ban đầu phát sinh ở chồi non làm chồi non thối và có màu nâu, khi cầm vào thì rời khỏi thân dễ dàng, mềm nhũn và đầy nước. Ở Cattleya đầu tiên bệnh thường phát sinh từ rễ, gốc rồi lan nhanh lên thân. Cây sẽ không thối hay rời ra như ở Dendrobium Pompadour nhưng chúng sẽ khô và chết ngay trên chậu, cây bị bệnh sẽ lan nhanh sang cây khác. Nguyên nhân là do nấm Collectotrichum sp và Phytophthora sp, nhưng phần lớn là do nấm Phytophthora sp. gây ra. Việc bón phân hoà tan không hết khi tưới cho cây sẽ làm cây bầm ngọn và làm nấm bệnh dễ gây hại. Ngoài ra trong mùa mưa, nếu tưới phân có hàm lượng đạm cao cũng là nguyên nhân gây bệnh.

Biện pháp phòng trị: Ở cây con thường dễ bị bệnh hơn, nên tách cây bị bệnh ra riêng và sử dụng thuốc ngừa cho những cây còn lại bằng cách phun hay nhúng cả cây vào dung dịch thuốc nấm. Ở cây lớn thì cắt bỏ phần bị thối, nếu thối đọt thì rút bỏ đọt và phun thuốc nấm vào. Các thuốc diệt nấm có thể sử dụng la: Kasumin, TopsinM, CuzateM8, Score, super Tilt,… theo nồng độ khuyến cáo trên bao bì.

2. Bệnh đốm vòng (Anthracnse)

Lá có chấm tròn màu nâu đỏ, nâu cháy rồi lan rộng ra thành nhiều vòng tròn đồng tâm, sau cùng sẽ khô cháy. Dấu vết to nhỏ tuỳ theo từng loại lan và tuỳ theo từng môi trường mà nấm phát triển, nếu mưa nhiều thì lá sẽ bị thối ngay. Nguyên nhân là do nấm Glocosporium sp. và Collectotrichum sp. gây ra. Bệnh thường xuất hiện vào mùa mưa nên phải phòng ngừa trước, thường xử lý bằng cách cắt bỏ lá bị bệnh và phun các loại thuốc như: Mancozep, Dithal, Vicaben,… theo nồng độ khuyến cáo.

3. Bệnh khô lá (Leaf blight): 

Bệnh này thường gặp nhiều như bệnh đốm vòng, hai bệnh này thường phát sinh cùng một lúc nên bệnh này càng trầm trọng hơn. Lúc đầu bệnh làm cho lá bị khô và biến thành màu nâu nhạt, thường khởi đầu bằng một chấm đen ở trên lá, có thể từ đầu lá khô dần vào hay từ gốc lá lan nhanh lên rồi khô hết cả lá. Nguyên nhân là do nấm thuộc giống Phylostica, thường phát triển do bào tử và phát tán trong không khí nhờ gió.

Biện pháp phòng trị: Phun thuốc Score hay Super Tilt, phun 5ngày/lần cho đến khi cây hết bệnh.

4. Bệnh héo rễ (Wilt):

Bệnh héo rễ là bệnh thông thường nhưng không kém phần quan trọng. Có thể nói rằng trừ Địa lan không bị bệnh này và nó là trở ngại lớn cho những người trồng phong lan.

Hiện tượng: Rễ khô dần, cây còn nhỏ gặp bệnh này có hiện tượng lá úa vàng từ dưới lên và chết cả cây. Đối với cây đã phát triển tốt thì cây không chết nhưng rễ bị khô mục và sẽ làm cho cây chậm phát triển, nếu rễ khô nhiều thì cây càng yếu nhiều.

Nguyên nhân: Do nấm Selectrotium rolfsii gây nên, còn gọi là nấm hạch, những hạch này có thể tồn tại trong môi trường rất lâu, khi có điều kiện ẩm độ và nhiệt độ cao những hạch này phát triển thành sợi nấm và gây bệnh rất nhanh, nếu không chữa trị ngay thì có thể làm hư hết cả vườn.

Biện pháp phòng trị: Có thể dùng các loại thuốc như Anvil, Sumi eight, … phun vào phần gốc rễ, phun 2 lần/ tuần khi bắt đầu chớm bệnh.

III. Bệnh do vi khuẩn

1. Bệnh thối mềm(Soft rot):

Hiện tượng: Từ một chấm nhỏ bắt nguồn từ một dấu bầm trên ngọn lá do giọt nước mưa quá mạnh gây ra rồi lan nhanh thành màu nâu như bị phỏng nước sôi, chỉ cần sờ tay vào một tí đã thấy dính tay, sau đó sẽ thối hết cả chồi. Nguyên nhân: Do vi khuẩn Erwinia Carotovora gây nên, thường gặp ở những vườn có độ ẩm cao, chăm sóc không đầy đủ và phát triển mạnh vào mùa mưa. Thường vi khuẩn này xâm hại đến cây qua các vết thương hoặc qua vết cắn của sâu bọ và lây lan rất mạnh, cây có thể chết sau 2-3 ngày nhiễm bệnh. Biện pháp phòng trị: Cắt phần bị thối rồi đem cả cây ngâm vào dung dịch Kasumin 5g/lit trong vòng 15 phút hoặc dùng Agrimycin. Ngưng tưới nước 2-3 ngày sau khi xịt thuốc. Trong trường hợp bị bệnh nặng, nên lấy cây ra khỏi chậu rồi ngâm vào nước thuốc trên, sau đó chuyển sang qua chậu mới. Giá đựng chậu lan bị bệnh dùng dung dịch formol tỉ lệ 1:50 pha với nước và rửa sạch. Sau đó cần phun xịt lại toàn bộ vườn lan để vườn lan hoàn toàn hết bệnh.

2. Bệnh thối nâu (Brown rot)

Hiện tượng: Ở giống lan Cattleya xuất hiện những chấm màu xanh đậm trên lá, vết bệnh hình tròn, lan rộng rất nhanh. Tế bào ở nơi vết bệnh biến thành màu nâu hay đen, mềm nhũn và chứa đầy nước. Nếu để lâu các vết bệnh này sẽ lan ra cả cây rất nhanh. Ở Cattleya thì dấu hiệu bình thường gặp ở lá và khó lan xuống thân cây hơn.

Nguyên nhân: Do vi khuẩn Phytomonas gây ra cộng với sự tổn thương cơ học trong mùa mưa.

Biện pháp phòng trị: Hạn chế các nguyên nhân gây tổn thương cơ học cho cây trong mùa mưa, giữ cho vườn lan không bị quá ẩm. Dùng kháng sinh trong nông nghiệp như Agrimycin phun cho cả vườn và ngưng tưới nước 2-3 ngày. Có thể dùng 1gram Streptomycin+2viên Tetracylin 500 hoà tan vào 1,5 lít nước để trị bệnh cho cây.

IV. Bệnh do virus 

Các biểu hiện của vườn lan bị virus thường thấy như lá có đốm trong, màu xanh không đều, có chỗ xanh nhạt, có chỗ xanh đậm. Hoa có màu không đều xen lẫn những vệt trắng, hoa nhỏ, cành ngắn. Cây thường cằn cỗi, không phát triển được. Ở Cattleya thường gặp virus gây nên bệnh sọc trắng ở hoa.

Bệnh virus rất dễ lây lan qua dụng cụ tách chiết, qua các côn trùng châm hút gây hại.

Biện pháp phòng trị: Không có cách chữa trị nào khác ngoài việc phải đốt bỏ cây bị bệnh, khử trùng dụng cụ tách chiết và vệ sinh vườn lan.

Tóm lại

Trong việc phòng trị bệnh cho lan không phải luôn luôn sử dụng thuốc mà quan trọng hơn là phải vệ sinh môi trường thật tốt, sử dụng phân bón hợp lý để tăng tính kháng bệnh cho cây và chế độ tưới tiêu hợp lý để hạn chế sự phát triển nguồn bệnh.Vấn đề này rất quan trọng trong phương thức nuôi trồng lan đại trà để kinh doanh ./.

Ks. Nguyễn Trung Ái

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…