Top 4 # Quy Trình Trồng Hoa Lan Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Inkndrinkmarkers.com

Quy Trình Trồng Lan Cattleya

Quy trình trồng lan Cattleya .Ldl

I. Đặc điểm sinh trưởng

Giống Cattleya có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, phần lớn ở vùng núi, độ cao từ 600 – 1800 m. Gồm 60 loài nguyên thuỷ và vô số loài lai trong cùng một giống hay với giống khác. Chúng được gọi là hoàng hậu của lan vì vẻ đẹp huy hoàng và đa dạng.

Cattleya là loài phụ sinh có giả hành cao trung bình, tròn hay hơi dẹp, thường to mập ở giữa, hai đầu hẹp lại. Các giả hành hơi khít nhau, lúc non có bẹ màu xanh bọc lại, lúc già các bẹ khô trở nên có màu trắng bạc. Ở mỗi đỉnh của giả hành có 1-2 lá khá to, dày, dai, bền, không có bẹ lá. Phía trong lá, ngay đỉnh của giả hành, khi có hoa thì có một cái mo mà ta gọi là lưỡi mèo bao bọc nụ hoa bên trong. Phát hoa mang từ 1-10 hoa to, có màu tím, vàng, trắng. Mỗi hoa có 3 lá đài hầu như bằng nhau, và hai cánh hoa bên luôn to hơn lá đài, có khi rất to. Môi to, 3 thuỳ với thuỳ bên rộng lớn có mép cong về trên che kín trụ, thuỳ giữa trải ra rộng lớn, mép nhăn hay gợn sóng, đôi khi không phân biệt được 3 thuỳ rõ rệt. Trụ khá cao, hơi cong, đầu trụ là nhị đực có nắp che. Bao phấn gồm 2 buồng, 4 khối phấn xếp thành từng cặp, phấn khối có hình đĩa màu vàng, mỗi cái có một vỉ phấn cong nhỏ. Người ta thường phân ra hai nhóm:

– Nhóm 1 lá: chỉ có một lá trên mỗi giả hành, thường mang từ 2-6 hoa lớn, môi sặc sỡ.

– Nhóm 2 lá: thường mang 2 lá trên mỗi giả hành, có hoa nhỏ hơn nhưng nhiều hơn (hoa chùm), môi nhỏ hơn và dày hơn.

II. Cách trồng Cattleya:

Thường trồng Cattleya vào chậu đất nung chín với chất trồng là dớn, than, gạch bể, xơ dừa, rêu Sphagnum.

Đầu tiên phải làm thoáng đáy chậu bằng cách để các cục than to, hay những miếng gạch vụn hoặc những que tre hay gỗ gác chéo ở phần đáy, bên trên là chất trồng.

Chất trồng thường phải được ủ xử lý và phối trộn với 10% phân chuồng hoai mục theo thể tích và khoảng 1-2% super lân. Đối với vùng có khí hậu lạnh như Đà Lạt thì giá thể tránh quá thông thoáng vì nhiệt độ lạnh vào ban đêm sẽ làm cho các đầu rễ đui đi và bộ rễ teo dần, cây phát triển kém, ngược lại giá thể quá bí thì cây dễ bị thối rễ vào mùa mưa. Một giá thể với phần đáy thật thông thoáng và phần bề mặt hơi kín thì rất tốt cho sự phát triển của Cattleya.

Đối với cây con được tạo ra qua con đường nuôi cấy mô thì phải trải qua giai đoạn nuôi cây ở nhà ươm, khi cây phát rễ cứng cáp thì mới trồng vào chậu.

Kỹ thuật trồng cây ống nghiệm:

Đối với Cattleya được tạo ra bằng con đường nuôi cấy mô thì sau khi cây được rút ra khỏi ống nghiệm cần thao tác nhẹ nhàng tránh làm tổn thương rễ hay đứt rễ, rửa thật sạch các vết thạch còn lại trên rễ xong ngâm toàn bộ cây vào dung dịch thuốc Kasumin 2gam/lít khoảng 5 phút. Vớt nhẹ cây ra và để ráo trong mát chuẩn bị trồng. Ở Đà Lạt chất trồng phổ biến là dớn mút, dớn này cần được ngâm nước và xả kỹ từ 2-3 lần cho hết độ chát có trong dớn, xong xé nhỏ. Dùng dớn xé nhỏ này bó xung quanh rễ cây cấy mô với độ rộng và dài gấp đôi rễ, xếp nhẹ nhàng những cây này vào khay mà dưới đáy đã trải sẵn một lớp dớn để không làm tổn thương rễ.

Chăm sóc : Cây nuôi cấy mô cần giữ ẩm liên tục trong vòng 7 -10 ngày đầu tiên sau khi trồng, độ ẩm khoảng 75-80 %, không khô quá vì cây mất nước sẽ chết, và không ẩm quá vì dễ gây thối cả cây. Tuyệt đối không được tưới vào buổi tối vì sẽ làm cho cây dễ thối nhũn, thường dùng bét phun sương khoảng 4-5 lần trong ngày và tuỳ thuộc vào thời tiết. Cây phải được đặt vào nhà có mái che bằng tôn sáng với độ sáng khoảng 40 -50% là thích hợp. Sau khoảng 15 ngày khi thấy đầu rễ phát triển thì giảm dần lượng nước phun cho đến khi bình thường. Trong thời gian này tiến hành phun phân bón lá có thành phần N:P:K=30:10:10 khoảng 5ngày/ lần. Tiến hành phun thuốc phòng nấm như Ridomil Gold 20g/ 10 lit, 1 tuần phun 1 lần, chú ý phun thuốc diệt côn trùng khi phát hiện thấy hoặc theo định kỳ 15 ngày/ lần (có thể là ốc sên, nhớt, ruồi nhỏ…). Chăm sóc trong nhà ươm khoảng thời gian từ 1,5 -3 tháng là có thể chuyển cây mô này vào chậu lớn và chăm sóc bình thường.

Đối với cây được tách chiết thì tách chiết sang chậu vào lúc chồi mới phát triển khi có rễ ló ra ở gốc. Nếu cây có nhiều hướng phát triển thì tách chúng ra 2 hay nhiều đơn vị để trồng. Mỗi hướng là một đơn vị, mỗi đơn vị ít nhất phải có một giả hành già với một chồi mới thì cây phát triển tốt hơn. Trong trường hợp có một chậu lớn và sang qua một chậu lớn hơn, muốn cho cây phát triển thành nhiều hướng thì sau khi thay chậu, cây phục hồi thì dùng dao tách 2 tép một và để nguyên như vậy giúp cây phát triển thành nhiều hướng, có thêm nhiều chối mới cùng trưởng thành 1 lúc nên khi có hoa sẽ cùng một lượt rất sum sê. Cattleya chỉ cho hoa ở các giả hành mới, và các giả hành cũ dù có xanh tốt vẫn không cho hoa.

Khi sang chậu hay tách chiết phải cắt bỏ rễ già chết, còn các rễ khoẻ phải giữ gìn cẩn thận, nhất là phần đầu rễ ở các chồi mới không được đụng chạm vào. Buộc cọc tỳ sát mép chậu cho thật vững, hướng phát triển vào giữa và phần căn hành phải phơi bày lên mặt chất trồng. Lớp mặt trên của chất trồng cũng phải được nén chặt không để cho cây lay động làm tổn thương đến sự phát triển của rễ. Đa số Cattleya chống chịu với mọi điều kiện miễn sao rễ thoáng, chất trồng không hư mục làm thối rễ. Ẩm độ thích hợp là 50 – 80%. Lúc cây phát triển cần tưới nước nhiều hơn so với khi cây nghỉ. Sự nghỉ ở Cattleya rất khó quan sát, những cây Cattleya có hoa vào mùa mưa thì thường có kỳ nghỉ kéo dài 6 -8 tuần, lúc đó các giả hành đã phát triển đầy đủ, không có chồi mới, không có rễ mới hoạt động. Trái lại những cây Cattleya ra hoa vào mùa khô thì không có sự nghỉ.

Cattleya cần nhiều ánh sáng, ánh sáng phù hợp là khoảng 50% trở lên. Nếu Cattleya khó ra hoa thì tăng ánh sáng và tăng bón phân có nhiều lân. Biểu hiện của một cây lan thừa ánh sáng là lá có thể bị cháy hoặc màu vàng, cây lùn thấp và rất cứng cáp, ngược lại cây thiếu ánh sáng có màu lá xanh đậm, dáng cây yếu đuối và rất dễ ngã. Cây lan Catttleya có màu xanh nhạt ánh màu vàng hay tím là cây được trồng nơi có vừa đủ ánh sáng. Phân bón cho Cattleya thường có nồng độ thấp hơn so với phân bón cho Dendrobium, Vanda hay Cymbidium. Cattleya là loại lan có thể sống được ở vùng nóng và vùng ôn đới và đặc biệt đây là giống rất thích nghi với điều kiện khí hậu Việt Nam với một biên độ rất rộng. Chính vì thế nó được trồng và phát triển mạnh ở khắp nơi: Các tỉnh phía Nam, các tỉnh phía Bắc và ngay cả trên vùng cao nguyên.

Nhiệt Độ lý tưởng cho Cattleya là 210C vào Ban ngày và 160C vào ban đêm. Vùng thích hợp cho loại này là vùng Bảo Lộc. Dù vậy lan Cattleya vẫn có thể sinh trưởng và phát triển ở một nhiệt độ cao hơn nhiệt độ lý tưởng là 80C vào ban ngày và 50C vào ban đêm. Nhưng nhiệt độ lý tưởng vẫn giúp cây sinh trưởng với điều kiện tốt nhất, cụ thể là ở Đà lạt. Mặc dầu các nhà vườn ít sử dụng phân bón, nhất là phân vô cơ nhưng Cattleya vẫn phát triển với kích thước lớn hơn so với cùng loài trong điều kiện ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra lan Cattleya cũng phát triển tốt ở những vùng có khí hậu mùa đông với nhiệt độ 130 C vào ban ngày và 100C vào ban đêm. Tuy nhiên ở vùng lạnh mát nên trồng loài Sophro Cattleya và loài Sophrolaelio Cattleya thì sự ra hoa của các loài này đều đặn hơn. Điều này là do các giống lan Cattleya được xuất phát từ 2 nguồn: Một nguồn từ vùng khí hậu nóng ẩm của Brazin và một nguồn từ vùng đồi núi cao nguyên ở Columbia và Mexico.

Ở vùng Đà lạt vì thường xuyên có không khí ẩm nên chỉ tưới nước 1-2 lần/ tuần tuỳ theo ẩm độ của giá thể vào mùa nắng và hoàn toàn không tưới nước vào mùa mưa.

Nhu cầu phân bón đối với loài lan Cattleyya: Các loài lan Cattleya có thể ra bông bất kỳ mùa nào trong năm với điều kiện bộ phận sinh dưỡng đủ khả năng phát triển thành một giả hành mới. Chính vì thế việc bón phân cho lan ngoài mục đích duy trì sự sinh trưởng và phát triển cho lan còn nhằm điều khiển sự ra hoa các loài thuộc giống này (trừ một số rất ít ra hoa theo mùa).

Cattleya là loài thực vật sống phụ sinh do đó việc bón phân cho lan bằng phương pháp phun sương thì hiệu quả hơn nhiều so với phương pháp tưới thẳng vào giá thể trong chậu. Phân sử dụng là phân bón lá có công thức N:P:K là 30-10-10 được phun theo nồng độ khuyến cáo của từng loại trên nhãn với cường độ là 2 lần/ tuần. Khi các giả hành chớm ra nụ hoa thì sử dụng phân bón có công thức là 10-20-20 với cường độ như trên.

Nếu cây Cattleya của bạn đã đủ sức khoẻ và bắt đầu mọc chồi mới, bạn muốn cho nó trổ bông vào 3 tháng tới thì dùng phân 6-30-30 phun cho cây 2lần/tuần. Có thể dùng phân vô cơ hỗn hợp với phân hữu cơ với nồng độ loãng hay các sản phẩm phân bón lá có nguồn gốc sinh học như: Rong biển, tinh cá, agostim… rất tốt cho quá trình sinh trưởng của cây. Vitamin B1 với nồng độ 0,01% phun 1lần/tuần cũng có tác dụng thúc đẩy sự tăng trưởng của cây.

Trước mùa nghỉ tăng trưởng của Cattleya 1 tháng, trong tháng 3 nên bón cho lan loại phân 10-20-30 để tạo sự cứng cáp cho cây trong mùa nghỉ tháng 4, và trong tháng 4 nên ngưng tưới hoàn toàn.

Mùa nghỉ của Cattleya: Cattleya là giống lan có mùa nghỉ, ở điều kiện khí hậu Việt Nam ta nên cho cây nghỉ mỗi năm 1 tháng. Mùa nghỉ của Cattleya ở các tỉnh phía Nam là trong suốt tháng 4, các tỉnh ở phía Bắc trong tháng 1, các tỉnh từ Thuận Hải đến Thừa Thiên Huế thì mùa nghỉ trong tháng 8.

Trong mùa nghỉ, cây không đòi hỏi dinh dưỡng và không tưới nước (vì thế mùa này nên để cây vào chỗ khô và mát) nên chỉ duy trì lượng nước đủ để cây sống, tăng độ che sáng lên 10% và nhiệt độ thích hợp trong mùa nghỉ càng thấp càng tốt, khoảng 100C cho vùng lạnh và 250 C cho vùng nóng.

Thay chậu và nhân giống Cattleya:

Lan Cattleya phát triển rất nhanh do đó việc thay chậu phải được thực hiện tối đa là sau 2 năm kể từ lúc trồng. Việc thay chậu nên tiến hành đồng thời với việc nhân giống. Khi quan sát thấy giả hành bắt đầu mọc ra khỏi mép chậu thì nên thay chậu. Việc thay chậu tốt nhất nên tiến hành vào đầu mùa mưa thì cây sẽ phát triển rất mạnh.

Nên cắt tách cây vào lúc 4 tháng trước mùa nghỉ và để nguyên tại chỗ, trét sơn vào vết cắt và phun hỗn hợp BA 1ppm +vitamin B1 20mg/l. Khi đến mùa nghỉ mỗi cây tách sẽ có một giả hành trưởng thành để chịu đựng trong mùa nghỉ, khi mùa mưa đến ta tách mỗi cây và đem trồng sang chậu mới. Muốn thay chậu Cattleya ta ngâm chậu vào một chậu nước có pha thuốc trừ rêu, trong vòng từ nửa giờ đến 1giờ các rễ sẽ tróc ra. Dùng kéo nhọn đã khử trùng cắt bỏ những rễ thối và những rễ quá dài chỉ chừa lại một đoạn 10cm. Cuối cùng cột chặt cây lan vào chậu mới và đặt chậu vào chỗ ẩm mát cho đến khi ra rễ. Lúc đó mới bắt đầu cho giá thể vào chậu và đưa chậu về vị trí cũ. Có thể dùng dung dịch NAA 1ppm phun vào giai đoạn đầu.

Lan Cattleya có thể nhân giống bằng cách tách chiết 3 giả hành một, nếu tách chiết dưới 3 giả hành thì cây sẽ phát triển rất yếu. Nếu Cattleya bị bệnh thì mắt trên căn hành sẽ bị thối đi, cây sẽ không tạo chồi ngọn và sự tạo thành chồi bằng hạt gạo hình thành trên giả hành nơi tiếp xúc với căn hành cây sẽ rất yếu và khó có thể ra hoa được.

Phòng trừ sâu bệnh cho Cattleya

I. Sâu hại

1. Rệp son (Scale insects): Là loại rệp có vỏ màu nâu che chở cho cơ thể rệp. Các loài này thường bám vào lá, giả hành và ngay cả trên căn hành để hút nhựa. Nguy hiểm hơn là các loài này sẽ bám vào những mắt ngủ hút nhựa làm cho các mắt ngủ bị chết đi. Các loài này phải phòng trừ thường xuyên nếu không sẽ sinh sản rất nhanh và gây tác hại cho vườn không ít. Phòng trừ bằng cách tiêu diệt bằng tay, dùng các thuốc mạnh như Regent, Lannate, polytrin,… theo nồng độ khuyến cáo.

2. Dán cánh và bọ trĩ (Thrips): Thường xuất hiện trong các giá thể có cấu tạo bằng xơ dừa, vỏ cây mục, dớn vụn hoặc do sử dụng quá nhiều các loại phân hữu cơ dưới dạng xác như: Bánh dầu, phân bo,… có thể dùng các loại thuốc sát trùng như Bassa, confidor, … sử dụng nồng độ theo khuyến cáo trên bao bì , nên phun ngừa 2lần/ tháng.

3. Ốc sên, nhớt: Phá hoại rễ non và tiết ra những chất làm thối các chồi mới mọc. Cần rải thuốc diệt sên nhớt vào những khi có thời tiết quá ẩm.

4. Nhện đỏ (red spider mites): Là côn trùng rất nhỏ, không dài hơn ½ mm, dưới kính lúp quan sát có dạng như con rệp, có 8 chân, nhện khi còn non thường có màu vàng, con trưởng thành chuyển sang màu đỏ. Xuất hiện nhiều vào mùa khô, ít hơn vào mùa mưa. Sống ẩn nấp dưới lá già thành từng đám, nơi nhện ẩn nấp lá biến thành những chấm trắng nhỏ sau đó nối với nhau biến thành màu đen và héo tàn. Rệp đỏ sinh sôi và phát triển rất nhanh, khi phát hiện phải diệt trừ ngay nếu không cây sẽ ngừng phát triển. Phải dùng thuốc thường xuyên và liên tục để diệt cả con già và con đẻ trứng, các thuốc thường dùng để phòng trừ nhện đỏ là: Commite, Nissorun … dùng theo liều lượng khuyến cáo trên bao bì và thời gian xịt tốt nhất vào lúc 8-9 giờ sáng khi có nắng thì hiệu quả tiêu diệt cao.

5. Rầy bông (Mealy bugs): Có cơ thể mềm nhũn, bên ngoài được bao bọc bằng một lớp màu trắng giống như bông và bóng như sáp. Trong phân của rệp bột này để nhử kiến đến và tha trứng đi khắp nơi và là nguồn thức ăn của nấm bồ hóng (Sacty molds). Nấm này không làm hại đến cây, trên lá những nơi có nấm mọc thì không nhận được ánh sáng để quang hợp. Khi rệp bột hút nhựa cây lan, chúng thường tiết ra một số chất độc làm cho cây lan ngừng phát triển, xung quanh chỗ nấm mọc có màu vàng và lá sẽ khô héo. Rệp bột được trị bằng các loại thuốc sâu, rệp nhưng phải pha cùng với chất dính để phun mới có hiệu quả.

II. Bệnh do nấm:

1. Bệnh thối đen (black rot)

Thường gặp vào mùa mưa ở những vườn có độ ẩm cao hoặc tưới nước quá nhiều. Bệnh này thường gây thiệt hại nghiêm trọng, cây thường chết nhiều và nhanh chóng, nhất là đối với cây con. Bệnh này thường xuất hiện ở gốc và rễ sau đó lan dần lên thân cây. Ban đầu phát sinh ở chồi non làm chồi non thối và có màu nâu, khi cầm vào thì rời khỏi thân dễ dàng, mềm nhũn và đầy nước. Ở Cattleya đầu tiên bệnh thường phát sinh từ rễ, gốc rồi lan nhanh lên thân. Cây sẽ không thối hay rời ra như ở Dendrobium Pompadour nhưng chúng sẽ khô và chết ngay trên chậu, cây bị bệnh sẽ lan nhanh sang cây khác. Nguyên nhân là do nấm Collectotrichum sp và Phytophthora sp, nhưng phần lớn là do nấm Phytophthora sp. gây ra. Việc bón phân hoà tan không hết khi tưới cho cây sẽ làm cây bầm ngọn và làm nấm bệnh dễ gây hại. Ngoài ra trong mùa mưa, nếu tưới phân có hàm lượng đạm cao cũng là nguyên nhân gây bệnh.

Biện pháp phòng trị: Ở cây con thường dễ bị bệnh hơn, nên tách cây bị bệnh ra riêng và sử dụng thuốc ngừa cho những cây còn lại bằng cách phun hay nhúng cả cây vào dung dịch thuốc nấm. Ở cây lớn thì cắt bỏ phần bị thối, nếu thối đọt thì rút bỏ đọt và phun thuốc nấm vào. Các thuốc diệt nấm có thể sử dụng la: Kasumin, TopsinM, CuzateM8, Score, super Tilt,… theo nồng độ khuyến cáo trên bao bì.

2. Bệnh đốm vòng (Anthracnse)

Lá có chấm tròn màu nâu đỏ, nâu cháy rồi lan rộng ra thành nhiều vòng tròn đồng tâm, sau cùng sẽ khô cháy. Dấu vết to nhỏ tuỳ theo từng loại lan và tuỳ theo từng môi trường mà nấm phát triển, nếu mưa nhiều thì lá sẽ bị thối ngay. Nguyên nhân là do nấm Glocosporium sp. và Collectotrichum sp. gây ra. Bệnh thường xuất hiện vào mùa mưa nên phải phòng ngừa trước, thường xử lý bằng cách cắt bỏ lá bị bệnh và phun các loại thuốc như: Mancozep, Dithal, Vicaben,… theo nồng độ khuyến cáo.

3. Bệnh khô lá (Leaf blight): 

Bệnh này thường gặp nhiều như bệnh đốm vòng, hai bệnh này thường phát sinh cùng một lúc nên bệnh này càng trầm trọng hơn. Lúc đầu bệnh làm cho lá bị khô và biến thành màu nâu nhạt, thường khởi đầu bằng một chấm đen ở trên lá, có thể từ đầu lá khô dần vào hay từ gốc lá lan nhanh lên rồi khô hết cả lá. Nguyên nhân là do nấm thuộc giống Phylostica, thường phát triển do bào tử và phát tán trong không khí nhờ gió.

Biện pháp phòng trị: Phun thuốc Score hay Super Tilt, phun 5ngày/lần cho đến khi cây hết bệnh.

4. Bệnh héo rễ (Wilt):

Bệnh héo rễ là bệnh thông thường nhưng không kém phần quan trọng. Có thể nói rằng trừ Địa lan không bị bệnh này và nó là trở ngại lớn cho những người trồng phong lan.

Hiện tượng: Rễ khô dần, cây còn nhỏ gặp bệnh này có hiện tượng lá úa vàng từ dưới lên và chết cả cây. Đối với cây đã phát triển tốt thì cây không chết nhưng rễ bị khô mục và sẽ làm cho cây chậm phát triển, nếu rễ khô nhiều thì cây càng yếu nhiều.

Nguyên nhân: Do nấm Selectrotium rolfsii gây nên, còn gọi là nấm hạch, những hạch này có thể tồn tại trong môi trường rất lâu, khi có điều kiện ẩm độ và nhiệt độ cao những hạch này phát triển thành sợi nấm và gây bệnh rất nhanh, nếu không chữa trị ngay thì có thể làm hư hết cả vườn.

Biện pháp phòng trị: Có thể dùng các loại thuốc như Anvil, Sumi eight, … phun vào phần gốc rễ, phun 2 lần/ tuần khi bắt đầu chớm bệnh.

III. Bệnh do vi khuẩn

1. Bệnh thối mềm(Soft rot):

Hiện tượng: Từ một chấm nhỏ bắt nguồn từ một dấu bầm trên ngọn lá do giọt nước mưa quá mạnh gây ra rồi lan nhanh thành màu nâu như bị phỏng nước sôi, chỉ cần sờ tay vào một tí đã thấy dính tay, sau đó sẽ thối hết cả chồi. Nguyên nhân: Do vi khuẩn Erwinia Carotovora gây nên, thường gặp ở những vườn có độ ẩm cao, chăm sóc không đầy đủ và phát triển mạnh vào mùa mưa. Thường vi khuẩn này xâm hại đến cây qua các vết thương hoặc qua vết cắn của sâu bọ và lây lan rất mạnh, cây có thể chết sau 2-3 ngày nhiễm bệnh. Biện pháp phòng trị: Cắt phần bị thối rồi đem cả cây ngâm vào dung dịch Kasumin 5g/lit trong vòng 15 phút hoặc dùng Agrimycin. Ngưng tưới nước 2-3 ngày sau khi xịt thuốc. Trong trường hợp bị bệnh nặng, nên lấy cây ra khỏi chậu rồi ngâm vào nước thuốc trên, sau đó chuyển sang qua chậu mới. Giá đựng chậu lan bị bệnh dùng dung dịch formol tỉ lệ 1:50 pha với nước và rửa sạch. Sau đó cần phun xịt lại toàn bộ vườn lan để vườn lan hoàn toàn hết bệnh.

2. Bệnh thối nâu (Brown rot)

Hiện tượng: Ở giống lan Cattleya xuất hiện những chấm màu xanh đậm trên lá, vết bệnh hình tròn, lan rộng rất nhanh. Tế bào ở nơi vết bệnh biến thành màu nâu hay đen, mềm nhũn và chứa đầy nước. Nếu để lâu các vết bệnh này sẽ lan ra cả cây rất nhanh. Ở Cattleya thì dấu hiệu bình thường gặp ở lá và khó lan xuống thân cây hơn.

Nguyên nhân: Do vi khuẩn Phytomonas gây ra cộng với sự tổn thương cơ học trong mùa mưa.

Biện pháp phòng trị: Hạn chế các nguyên nhân gây tổn thương cơ học cho cây trong mùa mưa, giữ cho vườn lan không bị quá ẩm. Dùng kháng sinh trong nông nghiệp như Agrimycin phun cho cả vườn và ngưng tưới nước 2-3 ngày. Có thể dùng 1gram Streptomycin+2viên Tetracylin 500 hoà tan vào 1,5 lít nước để trị bệnh cho cây.

IV. Bệnh do virus 

Các biểu hiện của vườn lan bị virus thường thấy như lá có đốm trong, màu xanh không đều, có chỗ xanh nhạt, có chỗ xanh đậm. Hoa có màu không đều xen lẫn những vệt trắng, hoa nhỏ, cành ngắn. Cây thường cằn cỗi, không phát triển được. Ở Cattleya thường gặp virus gây nên bệnh sọc trắng ở hoa.

Bệnh virus rất dễ lây lan qua dụng cụ tách chiết, qua các côn trùng châm hút gây hại.

Biện pháp phòng trị: Không có cách chữa trị nào khác ngoài việc phải đốt bỏ cây bị bệnh, khử trùng dụng cụ tách chiết và vệ sinh vườn lan.

Tóm lại

Trong việc phòng trị bệnh cho lan không phải luôn luôn sử dụng thuốc mà quan trọng hơn là phải vệ sinh môi trường thật tốt, sử dụng phân bón hợp lý để tăng tính kháng bệnh cho cây và chế độ tưới tiêu hợp lý để hạn chế sự phát triển nguồn bệnh.Vấn đề này rất quan trọng trong phương thức nuôi trồng lan đại trà để kinh doanh ./.

Ks. Nguyễn Trung Ái

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Quy Trình Trồng Hoa Cát Tường

                   

 Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Hoa Cát Tường

Hoa Cát tường là loại hoa đẹp không những có hình dáng hoa thanh lịch giống hoa hồng mà còn có bộ lá xinh xắn, đa dạng về màu sắc và chủng loại. hoa có nguồn gốc từ miền tây của nước Mỹ. Hiện tại đang là giống hoa đang được nhiều người ưa chuộng và thị trường tiêu thụ chấp nhận.

                          

I. Vị trí phân loại – Ngành: Magnoliophyta

– Lớp: Magnoliopsida

– Lớp phụ: Asteridae

– Bộ: Gentianales

– Họ: Gentianaceae

– Giống: Eustoma

– Tên khoa học: Eustoma grandiflorum

– Tên khác: Lisianthus, Prairie Gentian, Texas bluebell, Tulip Gentian, Bluebell, Lire de san pedro.

II. Đặc điểm sinh trưởng – Hoa cát tường là loài hoa dại có nguồn gốc từ Bắc mỹ. Là loài cây có khả năng chịu rét tương đối trên đồng cỏ và được biết đến với nhiều màu sắc khác nhau, có loại cánh đơn và cánh kép.

– Màu nguyên thủy là màu xanh, dần dần đã có sự xuất hiện đa dạng về màu sắc như hồng, trắng, trắng pha tím, trắng pha hồng, …

– Đây là loài hoa khá thanh lịch không chỉ được bán như các loại hoa cắt cành mà còn được biết đến dưới dạng hoa chậu nghệ thuật.

– Hoa Cát tường phát triển tốt ở điều kiện 70 – 80 Klux (ánh sáng tự nhiên). Do vậy vào mùa xuân hay mùa hè có cường độ ánh sáng cao nên thường phải che lưới cho hoa. Hoa cát tường thích hợp với vụ dài ngày, có số giờ chiếu sáng trong ngày tối ưu là 16 giờ trong ngày thì sẽ cho chất lượng bông cao nhất.

– Nhiệt độ tối thích cho hoa cát tường sinh trưởng và phát triển là từ 18 – 20 độ C vào ban ngày và 15 – 18 độ C vào ban đêm. Nhiệt độ vào ban đêm thấp hơn 15 độ C sẽ làm trì trệ quá trình sinh trưởng của cây. Vào ban ngày khi nhiệt độ cao hơn 28 độ C sẽ làm cho hoa nở sớm, rút ngắn quá trình sinh trưởng của hoa và cho hoa kém chất lượng. Tùy theo từng chủng loại giống mà có yêu cầu về nhiệt độ và quang chu kỳ khác nhau, do vậy trước khi trồng nên tìm hiểu chủng loại giống mà bố trí mùa vụ thích hợp.

– Độ ẩm khoảng 70% được xem là lý tưởng nhưng sau khi nụ đầu tiên được hình thành thì việc giảm độ ẩm xuống dưới 70% sẽ làm gia tăng chất lượng của hoa.

– Tính cả thời gian từ lúc gieo hạt cho đến khi cây ra hoa là từ 20 – 23 tuần.

III. Các chủng loại hoa Cát tường 1.Giống hoa kép                            1. Nhóm Avilia: nhóm này thích hợp ở điều kiện ánh sáng yếu và nhiệt độ mát. Do vậy nhóm giống này thường trồng vào vụ đông. Các màu thường là trắng ngà, viền xanh, hồng cánh sen, đỏ tía.

2. Nhóm Balboa: nhóm này thích hợp nhiệt độ và cường độ ánh sáng cao hơn. Phug hợp trồng vụ xuân đến hè. Phát triển tốt ở điều kiện quang chu kỳ ngày dài. Các màu thường là xanh, viền xanh, xanh tía.

3. Nhóm Catalina: thích hợp với điều kiện ngày dài và thời tiết ấm áp. Các màu thường là xanh tía và màu vàng.

4. Nhóm Candy: thích hợp với cường độ ánh sáng trung bình và quang chu kỳ ngày ngắn. Nhóm này cho hoa nở đồng loạt và có nhiều màu để chọn lựa.

5. Nhóm Echo: Nhóm này là nhóm phổ biến trong giống hoa cát tường.Không thích hợp với cường độ ánh sáng quá cao hay thấp, thích hợp cho vụ đông xuân. Các màu phổ biến trong giống này là xanh bóng, xanh tía, hồng, hồng tía, trắng tuyền.

6. Nhóm Mariachi: Nhóm này thích hợp trồng trong chậu. Đặc điểm giống này là có số cánh hoa nhiều, cánh hoa mỏng hơn các giống khác nên nhìn rất đẹp. Các màu phổ biến trong giống này là trắng, hồng, hồng nhạt, xanh…

2. Giống hoa đơn 1. Nhóm Flamenco: là nhóm thích hợp với cường độ ánh sáng cao và quang chu kỳ ngày dài. Thân hoa dài và mạnh. Các màu là xanh bóng, hồng, vàng, trắng.

                                                  2. Nhóm Heidi: thích hợp với cường độ ánh sáng trung bình và quang chu kỳ ngày ngắn. Có nhiều màu để chọn lựa.

3. Nhóm Laguna: là nhóm thích hợp với cường độ ánh sáng cao và quang chu kỳ ngày dài. Thân hoa dài khoảng 48 cm, một cây trung bình có 3 thân và 25 nụ hoa. Có 02 màu là xanh đậm và xanh tía.

4. Nhóm Malibu: thích hợp với cường độ ánh sáng trung bình và trong mùa xuân và mùa thu. Có nhiều màu là hoa cà, xanh đậm, trắng, hồng, trắng viền xanh.

5. Nhóm Yodel: Thân hoa dài khoảng 45 – 50cm. Có nhiều màu là xanh đậm, xanh, hoa cà, hồng phấn, hồng, trắng.

IV. Kỹ thuật trồng hoa Cát tường 1.Ươm giống Hạt giống hoa cát tường tương đối nhỏ (khoảng 19.000 hạt/gam) nên khó gieo trực tiếp ra đồng. Thường gieo vào vỉ xốp loại 200 lỗ. Gía thể dùng ươm thường là 30% xơ dừa + 30% đất mùn + 25% đất Feralit đỏ (đất mới) + 5% super lân và 10% phân chuồng ủ hoai mục. pH của giá thể vào khoảng 6 – 6,5. Sau khi gieo vào giá thể cần giữ ẩm thường xuyên để hạt nảy mầm và phát triển. Nhiệt độ thích hợp cho quá trình nảy mầm của hạt là 20 – 22 độ C. Quá trình nảy mầm diễn ra trong vòng từ 10 – 20 ngày. Nhiệt độ của nhà ươm cây không nên vượt quá 22 độ C. Nhiệt độ tối ưu cho cây con phát triển vào khoảng 15 – 18 độ C. Giữ độ ẩm giá thể vào khoảng 70 – 80%, không nên tưới nhiều làm ẩm độ quá cao cây con sẽ dễ bị nhiễm bệnh. Chăm sóc hàng ngày và phun thuốc định kỳ tuần/lần các loại thuốc diệt nấm như Zinep, Kasuran ……… và các loại thuốc diệt sâu như Sumi anpha, Regent, Pegasus… Cần tạo sự thông thoáng trong nhà ươm để giá thể không bị ẩm độ quá cao sau khi tưới.Khoảng 3 tháng sau khi gieo, cây có 2 – 3 bộ lá thì có thể xuất vườn ươm để trồng ra ngoài đồng.

2.Chuẩn bị đất trồng hoa cát tường có thể phát triển tốt trên nền đất có hàm lượng chất hữu cơ cao (đất bón phân chuồng hoai mục nhiều). Trước khi trồng đất cần được cày phơi ải, xử lý vôi và thuốc phòng trừ tuyến trùng, sên nhớt như Furadan… Sau khoảng 2 – 3 tuần phơi ải và xử lý đất, dùng phân chuồng đã ủ với chế phẩm Trichoderma và Super lân 5% vào thời điểm khoảng 1 tháng trước đó bón với lượng 10 m3/1.000 m2. Bổ sung thêm một lượng phân khoáng NPK (16:16:8) : 50 kg//1000 m2. Độ pH thích hợp từ 6,3 – 6,5. Rãi phân đều trên mặt luống, trộn và xăm trộn đều trên tầng đất mặt (20 – 30 cm) và tiến hành trồng cây.

3. Mật độ và khoảng cách trồng – Thiết kế rò rãnh 1,3 m, luống cao 15 – 20 cm để tạo độ thông thoáng . Trên mặt luống trồng từ 5 – 6 hàng với hàng cách hàng khoảng 15 – 18 cm, trên mỗi hàng trồng cây cách cây từ 10 – 12 cm. Mật độ trồng đạt khoảng 50 – 60 cây/m2. Vào mùa mưa có thể trồng thưa hơn để hạn chế bệnh phát triển và lây lang.

– Trong quá trình trồng chọn lựa những cây có bộ rễ phát triển tốt, lấy cây nhẹ nhàng ra khỏi vỉ xốp hạn chế tối đa việc làm thương tổn bộ rễ cây con và bể bầu đất ươm cây. Trồng và lấp đất ngang cổ thân, tránh trồng quá sâu có thể làm thối rễ cây con. Sau khi trồng cần quản lý tốt độ ẩm đất nhằm giúp cho cây con mau chóng hồi phục và phát triển tốt trên vườn. Trong ngày phải tưới từ 2 – 3 lần vào thời điểm 5 giờ sáng, 10 giờ sáng và 2 giờ chiều để giữ ẩm cho cây con bén rễ tốt. Sau 10 – 15 ngày khi cây con bén rễ, giảm số lần tưới xuống còn 1 – 2 lần/ngày tùy theo điều kiện thời tiết là trời râm hay nắng gắt.

4. Kỹ thuật chăm sóc a) Tưới nước – Độ ẩm đầy đủ là cần thiết cho sự sinh trưởng của hoa cát tường, tuy nhiên nếu duy trì độ ẩm quá cao và thường xuyên sẽ làm cây bị nhiễm một số bệnh nguy hiểm có trong đất như bệnh lỡ cổ rễ (Rhizoctonia solani), bệnh héo vàng (Fusarium solani), bệnh thối đen rễ (Pythium spp.)…

– Khi tưới cho hoa, thời điểm tưới thích hợp vào khoảng 5 – 8 giờ sáng, tưới vào thời điểm này sẽ làm cho đất hạn chế độ ẩm trong đêm, do đó ít phát sinh bệnh hại trên cây hoa cát tường đang phát triển .

b) Tỉa nụ hoa – Sau khi trồng từ 10 – 13 tuần cây sẽ cho nụ hoa đầu tiên. Cần tỉa bỏ nụ hoa đầu tiên này để các chồi bên ra hoa đồng loạt. Có một số giống không cần tỉa nụ hoa này mà cây vẫn cho hoa đồng loạt.

– Sau khi thu hoạch đợt bông đầu, cây sẽ có thời gian nghỉ khoảng 6 – 8 tuần mới cho bông đợt hai. Năng suất thu hoạch đợt bông lần hai chỉ bằng khoảng 20 – 30% so với năng suất lần đầu.

c) Tạo giá thể Sau khi trồng khoảng 1 tháng, cần tiến hành giăng lưới đỡ cây. Đóng nọc và giăng lớp lưới đầu tiên, thường sử dụng lưới đan bằng kẽm hay cước nylong có kích thước mắt lưới là 15 cm x 20 cm. Lớp lưới đầu tiên đặt cách mặt đất 30 cm, lớp lưới thứ hai cách lớp đầu tiên khoảng 15 cm – 20 cm. Hai lớp lưới này giúp cây hoa không bị ngã đỗ và giữ cho cành hoa được thẳng.

d) Giảm ánh sáng Hoa cát tường yêu cầu lượng ánh sáng cần cho quá trình quang hợp không cao, do vậy cần che một lớp lưới đen để giảm bớt từ 30 – 40% ánh sáng nhằm giúp gia tăng chiều dài cành hoa. Tuy nhiên vào các tháng mưa nhiều ở Đà Lạt (tháng 7,8,9) cần tháo bỏ lưới che để hạn chế bệnh do nấm hại phát triển, nhất là nấm mốc đen (Botrytis cineca) gây hại trên thân và lá của hoa.

e) Bón phân – Sau khi trồng 3 tuần, bón thúc 20 kg NPK(16:16:8) + 10 kg kali trắng/1.000 m2.

– Sau khi trồng 6 tuần, bón thúc 30 kg NPK(20:20:15) + 10 kg kali trắng/1.000 m2.

– Sau khi trồng 9 tuần, bón thúc 30 kg NPK(15:5:20)/1.000 m2.

– Sau thu hoạch lần một 2 tuần, bón thúc 20 kg NPK(16:16:8) + 10 kg kali trắng/1.000 m2.

– Sau thu hoạch lần một 4 tuần, bón thúc 30 kg NPK(20:20:15) + 10 kg kali trắng/1.000 m2.

– Khi bón phân đơn chú ý nên bón đạm ở dạng phân Nitrat, thường bón lượng đạm cân bằng với lượng phân Kali vào giai đoạn từ khi trồng đến khi hoa tượng nụ. Khi hoa bắt đầu tượng nụ, nên bón phân giảm hàm lượng đạm và tăng hàm lượng kali để tăng chất lượng hoa. Trong quá trình bón không nên rãi phân sát gốc hoa, thường bón kết hợp với việc xới xáo, làm cỏ. Sau khi bón xong cần tưới đẫm cho tan phân để cây hấp thu.

– Canxi cũng cần thiết trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây, tuy nhiên hoa cát tường không thích hợp khi trồng trên nền đất có hàm lượng canxi cao.

                                                            

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Cây Hoa Lan Hài

Ngày đăng: 2016-04-07 07:47:50

Có thể nói, loại lan đẹp nhất trong số các loài lan được biết đến là lan Paphiopedilum (phát âm: pa-phi-ô-pe-đi-lum) và Cyripedilum (Xíp-ri-pe-đi-lum), đó là các loại cây cảnh lý tưởng. Chúng thường được gọi chung là lan Hài, có thể nhận ra chúng dễ dàng bằng hình dạng của hoa, cái môi hay lưỡi của chúng giống hình chiếc Hài. Các cây Cypripedilum cũng được gọi là Hài vệ nữ, xuất xứ từ Đông Âu và Bắc Mỹ, trong khi đó, các cây Paphiopedilum có xuất xứ từ Ấn Độ, Malaysia, Đông nam Á và New Ghuinea

Vườn lan hài giống

Lá của lan Hài phát triển thành từng cặp từ gốc của cây. Cây giữ các lá này trong nhiều năm và cây sinh trưởng thành một cụm lớn. Chúng không có các giả hành vì vậy không thể lưu trữ nước và chất dinh dưỡng. Vì lý do này mà lan Hài không có mùa nghỉ, hoặc bị quá khô, mặc dù với hầu hết các loại hoa lan đều cần phải có sự thoát nước tốt.

Lan Hài có thể được trồng từ cây con đến trưởng thành hoặc được chia tách từ các cây trưởng thành. Các cây sống trong vùng khí hậu lạnh thường không có biến dị về lá, chúng thường có màu xanh, trong khi các cây sinh trưởng trong vùng ấm hơn thường có lá vằn, điều đó khiến cho chúng hấp dẫn ngay cả khi chúng chưa ra hoa.

Đa số các loài lan Hài sống dưới đất, có nghĩa là chúng được trồng trong đất, một số ít bám trên các cành cây và trong các hốc đá. Lan Hài tương đối dễ trồng và hoa của chúng thọ từ 8-10 tuần, ngay cả khi cắt hoa cắm lọ chúng cũng thọ được vài tuần. Hầu hết các loại Hài lai rất đa dạng về kích cỡ và màu sắc hoa.

Có một số loài cây thích hợp với điều kiện sống nơi bậu cửa sổ, hai loại lan hài Paph.callosum và Paph.sukhakulii. Cả hai xuất xứ từ Thái Lan, nở hoa vào mùa thu và yêu cầu điều kiện nhiệt độ ấm. Nếu bạn có đầy đủ các điều kiện tốt cho việc trồng lan Hồ Điệp, bạn cũng có thể trồng lan Hài và chúng cũng là một sự thử nghiệm thú vị!

1) Nhiệt độ trồng cây Lan Hài

Lan Hài được phân chia thành 2 nhóm chính, theo quy luật chung, những cây có lá màu xanh thường thích sống ở nơi có nhiệt độ lạnh đến trung bình, ban đêm từ 13-16 độ C, ban ngày 18-24 độ C. Các loại Hài có lá vằn thích hợp với điều kiện nhiệt từ trung bình đến ấm, ban đêm 16-18 độ C, ban ngày từ 21 – 25 độ C.

Lan nữ hài Paphiopedilum chia làm 2 loại nhiệt độ: Ấm lá có lốm đốm đòi hỏi trên 85oF (29,4oC)cho ban ngày và trên 60oF (15,6oC)cho ban đêm, loại Lạnh lá xanh không đốm dưới 80oF (26,7oC) cho ban ngày và dưới 60°F cho ban đêm. Nhưng nhiều tại California có thể trồng cả hai loại cùng một nhiệt độ. Mùa đông lan nữ hài có thể chịu lạnh đến 40oF (4,4oC) miễn là không bị đóng băng hay có nước đọng trên lá. Mùa hè khi nóng trên 95oF (35oC) cần tăng độ ẩm và thoáng gió.

2) Ánh sáng trồng cây Lan Hài

Lan Hài không cần ánh sáng mặt trời đầy đủ. Giống như các cây trồng trong nhà, chúng thường tốt trong điều kiện ánh sáng tốt, nhất là trong mùa đông. Nếu chúng được trồng trong nhà kính chúng yêu cầu các điều kiện một nửa, ánh sáng mặt trời trực tiếp trong suốt mùa hè sẽ là quá mạnh. Nếu mức sáng quá thấp cây sẽ không ra hoa và ánh sáng mạnh quá có thể gây ra vàng lá và cháy lá.

Lan nữ hài không cần nhiều ánh sáng, cho nên thích hợp trồng trong bóng mát hay trong nhà gần cửa sổ hoặc dưới ánh sáng của 4 chiếc đèn ống là đủ. Lan cần khoảng 1000-1500 lm, giống như trồng Phalaenopsis hay Masdevallia vậy.

3) Tưới nước cho cây Lan Hài

Cây cần phải được tưới nước quanh năm, 5-7 ngày tưới một lần trong mùa hè và một lần một tuần trong mùa đông. Điều quan trọng là cây phải được giữ ẩm nhưng không được đọng nước. Tất cả đều không có cơ quan dự trữ nước và dinh dưỡng. Nếu quá khô, rễ có thể bị hỏng. Luôn luôn tưới cây từ bên trên miệng chậu và không bao giờ cho phép chúng bị sũng nước. Nước mưa sạch là thích hợp, nhưng bạn có thể dùng nước máy lọc.

LƯU Ý: Không bao giờ được để cây bị sũng nước hoặc úng nước. Rễ cây sẽ bị thối và gây ra chết cây.

4) Cách bón phân cho cây Lan Hài

Khi cho ăn cần đảm bảo nguyên tắc thật loãng và thường xuyên. Cho ăn 2 tuần 1 lần vào mùa xuân và hè, 4 tuần 1 lần trong mùa thu và đông.

Nên bón bằng loại phân 30-10-10 pha thật loãng ¼ thìa cà phê gạt mỗi tuần một lần vào mùa hè và mỗi tháng 1 lần vào mùa đông. Mỗi tháng phải xả nước một lần cho đẫm để tránh muối đọng trong chậu.

5) Độ ẩm không khí

Không khí ẩm và lưu thông tốt là rất cần thiết, nhất là trong mùa hè, giúp giảm thiểu nguy cơ nhiễm nấm bệnh và giữ cho cây không bị khô quá nhanh. Độ ẩm có thể được nâng lên bằng cách đặt chậu cây lên trên các khay sỏi nhẹ với 50% độ ẩm là lý tưởng.

Trong nhà nên để trên khay hay đĩa nước dưới có đá hay gỗ, tránh việc ngâm chậu trong nước.

6) Sau khi tàn hoa

Cắt bỏ cành hoa cũ ở đỉnh của cây.

7) Thay chậu cho cây hoa Lan Hài

Các cây lai thường được thay chậu hàng năm. Tốt nhất là mùa xuân. Lan Hài hầu như không bị ảnh hưởng bởi sự thay chậu, thậm chí có thể thay chậu khi nó đang có nụ nếu cẩn thận không làm gãy nụ hoa. Thay chậu hoặc tách nhánh sau khi tàn hoa vào mùa xuân. Không nên dùng các chậu quá to, bởi vì nó sẽ sinh trưởng tốt hơn trong một cái chậu mà chậu đó chỉ cần đủ cho sự phát triển trong năm tới. Một cây có thể sinh trưởng đầy chậu thường xuyên. Một cây lớn thường sản sinh ra nhiều nhánh con nhưng đôi khi một cây già có thể được lợi từ việc chia tách nhằm tái sinh nó.

Có thể cây trồng của bạn phát triển rất tốt nhưng không ra hoa. Điều này cũng có thể xảy ra khi cây yếu hoặc bị úng nước. Các cây như vậy cần phải được thay chậu ngay bất kể thời điểm nào trong năm.

Hai năm phải thay chậu một lần hoặc khi vỏ cây đã bị mục. Trộn vỏ cây như sau:

Vỏ thông nhỏ 1/8″ ————– 6 phần Vỏ dừa nhỏ 1/4″ ————– 2 phần Than nhỏ 1/8-1/4″ ————– 1 phần Đá bọt Perlite ————— 1 phần Gỗ thông đỏ ————— 1 phần

Muốn thay chậu dễ dàng, hãy ngâm vào trong nước chừng 15 phút rễ sẽ tơi ra. Tách ra chừng 3-5 nhánh, nếu tách ít quá vẫn sống nhưng không ra hoa. Trồng vào giữa chậu và vùi sâu chừng 1,27cm. Đừng trồng sâu quá lan sẽ bị thối lá và cũng đừng trồng trong chậu quá lớn.

8) Kỹ thuật thay chậu cơ bản cho cây hoa Lan Hài

Tháo cây ra khỏi chậu cũ và kiểm tra tình trạng của rễ. Rũ bỏ chất trồng cũ. Nếu rễ chắc khỏe và trong tình trạng tốt thì chậu phải đủ rộng để cho sự phát triển trong năm tới. Nếu dùng vỏ cây để trồng thì cần phải ngâm nó mới tốt (1 ngày hoặc hơn) trước khi thay chậu. Dùng chậu đủ lớn để cho sự phát triển dự kiến của cây trong năm tới. Hỗ trợ cho sự phát triển của các nhánh cây lớn trong chậu bằng cách rải phân hữu cơ xung quanh rễ. Rễ cây khá mỏng manh và cần phải cẩn thận tránh bị hư trong quá trình thay chậu. Tưới nước sau khoảng 10 ngày sau khi thay chậu nhưng không được để cho chất trồng khô hoàn toàn. Sau đó tiếp tục tưới bình thường.

9) Chia tách cây hoa Lan Hài:

Các cây có thể được chia tách bằng cách kéo nhẹ các nhánh cây bên ngoài bụi. Cố gắng để tách thành các khóm có số lượng thân hợp lý, từ 2-3 thân là được. Đảm bảo việc chia tách cây sao cho có một thân tơ và một thân cho hoa. Trồng cây như đã nói trong phần trên với một cái chậu phù hợp.

10) Phòng trừ sâu bệnh cho cây Lan Hài:

Phòng bệnh hơn chữa bệnh, hãy lựa chọn những cây thực sự khỏe mạnh và nuôi trồng chúng thật tốt trong điều kiện sạch bệnh. Loại bỏ các cây quá yếu hoặc nhiễm bệnh và vệ sinh trong nhà kính. Không có các loại sâu bệnh cụ thể gắn với lan Hài, nhưng các loại nấm, rệp…sẽ làm suy yếu cây nếu không được kiểm soát. Rửa sạch chúng bằng nước xà phòng nếu phát hiện sớm, nếu không, cần dùng các loại thuốc đặc trị với hướng dẫn cụ thể.

LỜI KHUYÊN: Nên mua hoa lan từ các nhà cung cấp có uy tín và lựa chọn các cây thực sự khỏe mạnh, sạch bệnh. Nếu mua cây đang hoa, kiểm tra những bông hoa không bị hư hại bằng cách chạm nhẹ vào môi của hoa, nếu môi mềm hoặc có vết là dấu hiệu hoa sắp tàn. Xem xét các chồi mới phát triển.

LƯU Ý:

– Để tránh hư hại cây và hoa, nên giữ chúng tránh xa các nguồn nhiệt như máy điều hòa, và các nguồn nhiệt khác.

– Lá mềm có thể là dấu hiệu của sự quá nóng hoặc thiếu nước, bởi vì lan Hài thường được trồng trong chậu nhỏ với chất trồng thoát nước, chúng có thể khô rất nhanh chóng. Tưới nước là yếu tố quan trọng nhất và nguyên tắc vàng để cây sinh trưởng tốt là giữ cho chúng mát mẻ và ẩm ướt

TIN TỨC KHÁC :

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Hoa Lay

I. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC VÀ YÊU CẦU VỀ ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH

Hoa lay-ơn (Gladiolus communis L.) thuộc lớp một lá mầm (Monocotyledoneae), họ Lay-ơn (Iridaceae). Chi lay-ơn (Gladiolus) có khoảng 260 loài với trên 10.000 giống khác nhau, trong đó 250 loài từ Châu Phi, 10 loài từ Châu Âu-Á.

1. Đặc điểm thực vật học

– Thân: Cây hoa lay-ơn có dạng thân thảo, thân giả được kết bởi các bẹ lá xếp chồng lên nhau, bẹ lá trước xếp phủ lên bẹ lá sau.

– Lá: Lá cứng hình lưỡi kiếm, cuống lá phần gốc rộng và to thành hình như cái bao xếp chồng lên nhau tạo thành củ lay-ơn. Lá dài khoảng 30-80cm, rộng 4-5cm, có gân dọc. Giữa phiến lá và bẹ lá không phân biệt rõ ràng. Lá xếp thành 2 dãy, mọc thẳng đứng, trên mặt lá phủ một lớp phấn sáp ít thấm nước.

– Hoa: Cánh hoa lớn, dạng hình lá bao vào nhau khi chưa nở. Khi nở hoa có dạng hình phễu, bao hoa dính nhau tạo thành một khối gồm 2 vòng hoa (2 lớp cánh), nhị và nhụy hoa ở vòng trong hoa, bao phấn hướng ra ngoài, bầu noãn phía dưới có 3 ngăn hình cầu. Cánh hoa có loại bằng, lượn sóng… Trên cành hoa mang nhiều hoa (12-20 hoa), xếp dọc theo chiều dài của cành theo kiểu zíc zắc

– Quả và hạt: Có 3 ngăn chứa nhiều hạt phía trong, khi hạt trần có bao lớp màng màu nâu.

– Củ và rễ: Củ chính là thân ngầm của cây hoa lay-ơn. Rễ dạng chùm ít ăn sâu mà phát triển theo bề ngang. Có 2 loại rễ: rễ mọc từ giống ban đầu (củ mẹ) gọi là rễ sơ cấp và rễ mọc từ củ con do củ mẹ đẻ ra gọi là rễ thứ cấp.

2. Yêu cầu về điều kiên ngoại cảnh

– Nhiệt độ: Lay-ơn ưa khí hậu mát mẻ, không chịu được nắng nóng. Nhiệt độ thích hợp là 15-270C. Ở vùng nhiệt đới, nhiệt độ mùa hè cao quá sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự sinh trưởng của cây và chất lượng hoa (cây sinh trưởng chậm, hoa nhỏ, ít hoa, tuổi thọ cành hoa ngắn), sức đề kháng kém nên sâu bệnh hại nặng hơn.

– Ánh sáng: Lay-ơn là cây ưa ánh sáng, cần 100% ánh sáng trực tiếp. Nếu thiếu ánh sáng cây sinh trưởng yếu, bị vóng và dễ nhiễm bệnh, hoa nhỏ. Thời gian chiếu sáng mỗi ngày từ 12-14 giờ với cường độ chiếu sáng 6000lux là phù hợp nhất.

– Độ ẩm: Lay-ơn là loại hoa ưa ẩm nhưng không chịu được úng nước. Khi bị úng nước, bộ rễ sẽ bị tổn hại, củ thối, cây vàng úa và chết. Độ ẩm đất thích hợp đối với cây lay-ơn khoảng 70-75%. Nếu độ ẩm thấp cây sinh trưởng chậm, năng suất thấp.

– Đất: Đất trồng lay-ơn phải có độ tơi xốp cao, thoáng khí, giữ nước tốt và có độ phì nhiêu cao. Vì vậy, đất thịt là đất trồng lay-ơn lý tưởng nhất.

– Dinh dưỡng

+ Đạm (N): Có vai trò đặc biệt quan trọng trong suốt thời kỳ sinh tưởng và phát triển của cây, thiếu đạm cây sẽ cằn cỗi, lá nhỏ, vàng úa, cành hoa ngắn, hoa nhỏ, ít hoa. Trong thời kỳ đầu của cây, cần lượng đạm nhiều hơn để cây sinh trưởng khỏe và tạo phát hoa lớn. Tuy nhiên không nên bón quá nhiều cây sẽ bị vóng, lốp đổ và ra hoa muộn.

+ Lân (P): Giúp bộ rễ phát triển mạnh, cây con khỏe, thân cứng cáp, hoa bền, màu sắc đẹp, chống chịu tốt với điều kiện bất thuận. Thiếu lân bộ rễ sẽ chậm phát triển, ra hoa muộn, cành hoa ngắn, ít hoa và màu sắc nhợt nhạt. Lay-ơn thường cần lân ở giai đoạn đầu trồng cây và thời kỳ hình thành phát hoa. Đối với đất chua thì nên dùng phân lân nung chảy để cải tạo đất.

+ Kali (K): Giúp cây chịu hạn, chịu rét và chống chịu sâu bệnh. Cùng với lân, kali giúp hoa nhanh nở, màu hoa tươi tắn, lâu tàn nên lay-ơn cần nhiều kali hơn ở giai đoạn phát hoa. Đối với lay-ơn, sau khi thu hoạch hoa sẽ còn một thời gian nuôi củ (1,0-1,5 tháng) để tạo củ giống cho vụ sau nên cần phải cân bằng hàm lượng kali cho hợp lý trong giai đoạn này để cây cho củ giống tốt nhất.

+ Phân trung lượng và vi lượng: Là các các loại phân quan trọng bổ sung các nguyên tố hóa học cây cần ở mức độ trung bình. Cây cần không nhiều nhưng không thể thiếu và cũng không thể thay thế được. Với loại phân này không nên bón thẳng vào đất mà chỉ phun qua lá khi có triệu chứng thiếu một loại vi lượng nào đó.

+ Calcium (Ca): Giúp bộ rễ phát triển khỏe, cây khỏe, cứng cáp, hấp thụ đạm tốt. Thiếu calcium rễ yếu, cây phát triển chậm tạo điều kiện thuận lợi cho nấm bệnh phát triển, lá nhỏ và quăn ở mép, cành hoa yếu và hoa nhỏ;

+ Magnesium (Mg): Giúp cây sinh trưởng và phát triển tốt, lá xanh tốt. Thiếu magnesium rễ phát triển kém, lá sẽ bị vàng úa nhưng gân lá vẫn xanh, hoa chậm nở;

+ Lưu huỳnh (S): Thiếu lưu huỳnh cây trở nên cằn cỗi, lá chuyển màu vàng nhạt, viền lá hay bị bầm thối. Triệu chứng này thường xuất hiện ở lá non và đỉnh ngọn.

+ Sắt (Fe): Giúp cây sinh trưởng và phát triển tốt, màu sắc hoa đẹp và đậm, kích thích nở hoa. Thiếu sắt bộ rễ chậm phát triển, hoa chậm nở, màu lá trở nên nhạt chuyển sang vàng đến bạc trắng.

+ Mangan (Mn): Sự thừa hoặc thiếu mangan đều làm cây phát triển kém, sự hình thành nụ hoa sẽ giảm hoặc có khi không hình thành được nụ, hoa nhỏ và bị khô do thiếu mangan. Sự dư thừa mangan thường xuất hiện ở đất được xử lý bằng xông hơi đặc biệt là khi pH thấp. Thiếu mangan lá cây chuyển màu vàng nâu, có những chấm nhỏ màu nâu dọc theo mép lá;

+ Đồng (Cu): Thiếu đồng làm cây sinh trưởng kém, lá mềm, dễ rụng; có thể nhận biết ở phần lá non bị bạc màu và có đốm trắng ở đầu lá;

+ Bor (Bo): Thiếu Bo đọt cây thường bị khô hoặc thối, thân và lá bị nứt nẻ, lá quắn lại, rễ kém phát triển, cây còi cọc;

II. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC

1.Chuẩn bị đất

– Chọn đất thịt nhẹ, tơi xốp, bằng phẳng, thoát nước tốt, pH = 6-6,5;

– Đất được làm sạch cỏ dại và tàn dư thực vật của vụ trước;

– Đất được cày sâu 30-40cm, tơi xốp, khử tuyến trùng bằng Ethoprophos 10% (20-30 kg Mocap hạt/ha), khử vi khuẩn bằng Calcium hypochlorite (30 kg/ha) (cần tham khảo ý kiến nhà chuyên môn trước khi sử dụng);

Lưu ý: Không được trồng 2 vụ lay-ơn liên tục trên một mảnh đất, tốt nhất nên luân canh cây trồng khác 2- 3 năm.

2. Lên luống, xẻ rạch

– Lên luống cao, bề mặt luống 1,2-1,3m, bề mặt luống bằng phẳng, tưới ẩm và phun thuốc diệt mầm cỏ dại;

– Rải phân lân, phân vi sinh và tưới ẩm trước khi xẻ rạch;

– Xẻ rạch: Xẻ rạch theo chiều ngang của luống, độ sâu của rạch khoảng 12-15cm, các rạch cách nhau 25-30cm.

3.Chọn củ giống và trồng

– Chọn củ giống đồng đều về kích thước và màu sắc, mầm và rễ đều, khỏe mạnh, sạch bệnh và virus và không bị sứt sẹo.

– Củ giống nên được xử lý trước khi trồng: ngâm củ khoảng 10-15 phút trong Iprodione (Rovral), mancozed (Mancozed, Dithane) 2%, hong khô trước khi trồng.

* Cách trồng

– Đặt củ trong các rãnh đã xẻ trước, đặt ngay ngắn đáy củ tiếp xúc với mặt đất, mầm hướng lên phía giúp cho mầm củ phát triển tốt và thẳng, trồng với mật độ 250.000 -300.000 củ/ha, tùy thuộc vào kích cỡ củ và loại giống;

– Lấp một lớp đất mặt dày khoảng 2,5-3cm, lấp cẩn thận tránh không làm củ bị nghiêng ngã và gãy mầm trong khi lấp, tưới ẩm đều ngay sau khi trồng

4. Phân bón và cách bón phân

- Lượng phân bón sử dụng cho 1ha

+ Phân chuồng                 : 40 – 50m3

+ Vôi                                   : 1000kg

+ Lượng phân vô cơ nguyên chất: 150kg N- 120kg P2O5 - 150kg K2O

+ Vi sinh: 300kg

+ Magiê sulphat: 100kg

– Phương pháp bón

Có thể sử dụng phân đơn chất hoặc phức hợp cân đối theo lượng nguyên chất nói trên:

* Nếu sử dụng phân đơn: Cần 326 kg urê, 750 kg super lân, 250 kg kali đỏ

– Bón lót: toàn bộ phân chuồng, vôi, phân vi sinh và magiê sulphat, lân super 375kg;

– Bón thúc:

Đợt bón

Thúc

Ngày sau trồng

Lượng phân (kg/ha)

Giai đoạn sau trồng

Ure

Super lân

Kali đỏ

 

1

10 – 15

81,5

187,5

 

Cây lên khỏi mặt đất

2

25 – 30

163

187,5

125

Lên luống

3

50 – 55

81,5

125

Cây bắt đầu trổ đòng

* Nếu sử dụng phân NPK 20 – 20 – 15: cần 600kg NPK, 65kg ure, 100kg kali đỏ

– Bón lót: toàn bộ phân chuồng, vôi, phân vi sinh và magiê sulphat, 200 kg NPK;

– Bón thúc:

Đợt bón

Thúc

Ngày sau trồng

Lượng phân (kg/ha)

Giai đoạn sau trồng

NPK

Ure

Kali đỏ

 

1

10 – 15

100

32,5

Cây lên khỏi mặt đất

2

25 – 30

150

32,5

50

Lên luống

3

50 – 55

150

50

Cây bắt đầu trổ đòng

Bổ sung phân bón lá và vi lượng bằng cách phun Atonik, Miracle, Ba lá xanh, Tinh phân cá… kết hợp với những lần bón thúc (phun trước khi cây phát sinh chồi hoa, phun vào lúc mát trời và tưới vào sáng sớm hôm sau để hạn chế sự phát triển của nấm bệnh).

5.Tưới nước

– Mỗi thời kỳ sống cây lay-ơn cần nhu cầu về nước khác nhau. Đặc biệt trong giai đoạn cây mới trồng và bắt đầu ra lá thứ 5 đến lá thứ 8, cần nhu cầu rất lớn về nước, nếu thiếu nước cây mọc không đều và ảnh hưởng đến sự phân hóa hoa dẫn đến cành hoa ngắn, ít hoa.

– Tưới nước thường xuyên tưới nước đảm bảo độ ẩm cho cây, thiếu nước làm cho hoa ngắn và nhỏ, củ nhỏ.

6.  Tỉa nhánh, lên luống

– Sau khi trồng 7-10 ngày, mầm cây mọc lên khỏi mặt đất, tiến hành loại bỏ các chồi phụ chỉ để lại 1 chồi chính cây để phát triển khỏe mạnh.

– Lên luống lần 1: Khi cây được 2-3 lá tiến hành xăm xới, bón thúc và lên luống lần 1, vun nhẹ một lớp đất mỏng vào cạnh gốc. Khoảng  2 tuần sau đó tiến hành vun gốc đợt 2, đợt này cần vun cao để chống đổ cho cây và tạo điều kiện cho cây sinh củ con. Sau đợt vun này tiến hành giăng lưới giúp cho cây không đổ và cành hoa không bị cong.

III. SÂU BỆNH HẠI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ

1. Sâu hại chính và biện pháp phòng trừ

1.1. Sâu xám (Agrotis upsilon ):

Thường phá hoại ở thời kỳ cây non, khi gặp thời tiết ẩm và ấm sâu phát triển mạnh hơn.

Có thể tham khảo sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có các hoạt chất sau để phòng trừ: Diazinon, Abamectin,  Cypermethrin + profenofos, Esfenvalerate.

1.2. Sâu khoang ăn lá (Spodoptera  litura):

Loại sâu này thường phá hoại suốt thời kỳ sinh trưởng của cây. Chúng thường cắn phá lá, hại hoa làm giản năng suất và chất lượng hoa.

Có thể tham khảo sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có các hoạt chất sau để phòng trừ: Abamectin, Emamectin, Cypermethrin

1.3. Rầy xanh

Xuất hiện thường xuyên trên đồng ruộng, chích hút nhựa cây làm cây vàng úa. Rầy xanh còn là đối tượng trung gian truyền bệnh virus.

Có thể tham khảo sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có các hoạt chất sau để phòng trừ: Abamectin, Acetamiprid, Azadirachtin, Buprofezin, Cypermethrin

1.4. Bọ trĩ (Frankliniella occidentalis):

Chúng có kích thước rất nhỏ, thường xuất hiện khi cây được 1 tháng tuổi, chúng chích hút thân làm cây sinh trưởng chậm làm hoa không nở được hoặc bị méo mó.

Có thể tham khảo sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có các hoạt chất sau để phòng trừ: Imdacloprid, Abamectin, Cypermethrin, Dinotefuran, Emamectin benzoate1.

2. Bệnh hại chính và biện pháp phòng trừ

2.1. Bệnh do Fusarium spp.

+ Đặc điểm gây hại:

Bệnh sinh ra bởi nấm Fusarium oxysporum  chúng tôi gladioli tồn tại trong đất. Chúng xâm phạm vào củ và dễ dàng lan rộng bởi cây mẹ mang bệnh. Củ có thể bị nhiễm mà không có những triệu chứng rõ ràng.

Bệnh thường xuất hiện ở phần thân giả nằm dưới mặt đất làm cho thân teo tóp, củ thối nhũn, cây không phát triển được hoặc bị dị dạng. Chỗ bị bệnh có phủ một lớp phấn màu hồng.

+ Biện pháp phòng trừ

– Trồng củ khỏe mạnh, loại bỏ củ nào có dấu hiệu của bệnh

– Thu hoạch củ khi thời tiết khô ráo, làm sạch và phơi khô ngay sau khi thu

– Loại bỏ tất cả củ bệnh khi thu họach vì Fusarium spp. có thể  phát triển tốt trong thời gian lưu trữ.

– Nhổ bỏ cây nhiễm bệnh xuất hiện trên đồng ruộng.

– Dùng Fulhumaxin 5.65 SC. Ngoài ra có thể tham khảo sử dụng các hoạt chất sau để phòng trừ: Thiophanate – methyl, Benomyl, Iprodione, phun theo liều lượng khuyến cáo

2.2. Bệnh trắng lá (Septoria gladioli)

+ Đặc điểm gây hại:

– Do nấm Septoria gladioli gây ra, bệnh hại nặng trong điều kiện trồng trên đất cát có độ ẩm cao, đất vườn không luân canh, lưa cữu nhiều năm.

– Vết bệnh lúc đầu nhỏ như mũi kim, về sau to dần, có hình dạng tròn hoặc hình bầu dục, giữa màu trắng xám, ngoài viền nâu sẫm, trên vết bệnh về sau có màu đen, bệnh hại lá bánh tẻ, lá già. Bệnh nặng làm lá vàng nâu, chóng tàn.

– Biện pháp phòng trừ: Có thể tham khảo sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có hoạt chất sau để phòng trừ:  Hexaconazole, Thiophanate – Methyl, Propineb, Difenoconazole..

2.3. Bệnh mốc xám (Botrytis sp.)

+ Đặc điểm gây hại:

– Do nấm Botrytis blight gây ra, bệnh dễ xuất hiện trong điều kiện mưa nhiều và đất ẩm ướt.

– Những đốm nâu và ướt xuất hiện trên cánh hoa, thân, sau đó xâm nhập vào củ, củ sẽ tiếp tục thối trong thời gian lưu trữ.

+ Biện pháp phòng trừ:

Dùng Fulhumaxin 5.65 SC phun theo liều lượng khuyến cáo, ngoài ra có thể tham khảo sử dụng thuốc có các hoạt chất sau để phòng trừ: Iprodione, Chlorothalonil, Thiophanate-Methyl.

2.4. Bệnh thối xám (Sclerotinia gladioli)

+ Đặc điểm gây hại:

Bệnh xâm nhiễm trên lá và thân gây thối nhũn nhưng không có mùi hôi, bệnh thường phát triển mạnh trong điều kiện ẩm ướt. Vết bệnh lúc đầu có màu nâu vàng hay nâu xám, trên mô bệnh thường thấy 1 lớp bào tử nấm màu trắng hay màu nâu đen hình bất định.

+ Biện pháp phòng trừ: Có thể tham khảo sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có các hoạt chất sau: Carbendazim, Chlorothalonil, Iprodione

2.5. Bệnh rỉ sắt (Uromyces transversalis)

+ Đặc điểm gây hại:

Trên lá xuất hiện những đốm bệnh hình dạng bất định, màu nâu đậm, phát triển theo chiều ngang của lá, bột bào tử màu nâu đỏ phủ trên vết bệnh.

+ Biện pháp phòng trừ:

– Tham khảo sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có các hoạt chất sau: thuốc gốc đồng, Hexaconazole, Diniconazole, Carbendazim, diniconazole..

2.6. Bệnh đốm nâu (Pleospora herbarum)

+ Đặc điểm gây hại:

Vết bệnh nhiều, hình tròn, bầu dục màu nâu đen nằm rải rác ở mép lá, phiến lá, gặp thời tiết ẩm ướt vết bệnh lan rộng. Nấm phát triển thích hợp ở 18-300C, ẩm độ cao 90%. Trời mưa ẩm ướt bệnh phát triển mạnh.

+ Biện pháp phòng trừ: Dùng Fulhumaxin 5.65SC, ngoài ra có thể tham khảo dụng thuốc bảo vệ thực vật có các hoạt chất sau để phòng trừ:  thuốc gốc đồng hoặc thuốc có gốc hóa học Carbendazim, Benomyl

2.7. Bệnh khảm lá do virus:

Các giống cũ thoái hóa thường bị bệnh nặng. Để phòng trừ bệnh cần được phục tráng giống, và phòng trừ tốt rầy, rệp… là môi giới truyền bệnh.

IV. THU HOẠCH XỬ LÝ VÀ BẢO QUẢN

1. Thu hoạch hoa

– Thời điểm thu hoạch: Thích hợp nhất là lúc trên gốc hoa tự có 1-2 hoa nhú thể hiện được màu, nhưng chưa nở trong một ngày là tốt nhất, nên thu hoạch trước 10 giờ sáng.

– Vị trí cắt: Khi cắt phải chừa lại ít nhất 2-3 lá hoàn chỉnh trên cây để cho cây tiếp tục nuôi củ. Các dụng cụ để thu hoạch hoa phải sắc bén và được khử trùng, thu hái cẩn thận. Cắt vát 150 sát gốc nhằm tạo khả năng hút nước của hoa được dễ dàng.

– Không đặt hoa lên đất bẩn, tránh làm dập hoa. Hoa lay-ơn vừa thu hoạch nên cắm ngay vào nước khử ion hoặc tốt nhất là cắm vào dung dịch bảo quản. Vận chuyển ngay về nơi thoáng mát để không làm ảnh hưởng đến chất lượng cành hoa.

– Đóng gói: Cần loại bỏ những bông hoa bị bệnh, bị héo và bị dập do cơ học, bộ lá không đẹp, sâu bệnh… Những bông đủ tiêu chuẩn nên được sắp xếp theo từng độ tuổi khác nhau, bó theo từng giống, độ dài cành và cấp hoa, bó bằng gốc. Tùy theo thị trường, yêu cầu của khách hàng đóng gói theo quy cách khác nhau. Đóng vào thùng carton khi vận chuyển đi xa. Thùng carton cần có đủ lỗ thông hơi được bố trí hợp lý. Nếu chưa vận chuyển ngay nên để hoa trong kho lạnh giữ ở nhiệt độ 4-6oC và cắm hoa trong dung dịch bảo quản Flocare-NH. Nếu vận chuyển xa nên vận chuyển bằng xe lạnh ở nhiệt độ 4-6oC hoặc vận chuyển vào ban đêm.

2. Thu hoạch củ

Sau khi thu hoạch hoa khoảng 6-8 tuần thì tiến hành thu họach thu hoạch củ. Trước khi thu hoạch, ngừng tưới nước 2 tuần để củ được khô ráo, thu vào những ngày nắng ráo. Thu cẩn thận tránh làm xây xát củ, thu kỹ cả củ lớn và hạt. Loại bỏ các củ bị bệnh ngay trên đồng ruộng để tránh lây lan mầm bệnh sang các củ khỏe mạnh.

* Xử lý củ

– Củ thu xong được rửa sạch và xử lý ngay để tránh nguồn bệnh lây lan.

– Dùng Iprodione, Mancozeb 0,2%, ngâm củ trong 15- 20 phút. Sau đó đem phơi ở nơi thoáng mát.

3. Bảo quản củ giống

– Sau khi xử lý phơi củ ở nơi thoáng mát, có nắng nhẹ, sau 7-10 ngày củ sẽ mất bớt nước dư thừa giúp cho lưu trữ củ giống được tốt.

– Tách hạt nhỏ ra khỏi củ lớn, phân loại để tiện theo dõi và thuận lợi cho việc trồng vụ sau. Kho bảo quản củ giống phải thoáng, đủ sáng và có biện pháp tránh sâu, chuột thâm nhập. Kiểm tra kho thường xuyên để kịp xử lý khắc phục tình trạng sâu bệnh, chuột bọ. Có thể bảo quản ở nhiệt độ thường 18-25oC  hoặc bảo quản ở trong kho lạnh 7-10oC.