Top 5 # Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Ớt Xuất Khẩu Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Inkndrinkmarkers.com

Kỹ Thuật Trồng Ớt Xuất Khẩu

Ớt cay chứa nhiều chất capsaicine có tác dụng gây cay, kích thích ngon miệng và thúc đẩy nhanh quá trình tiêu hoá. Vì vậy, ớt cay đã trở thành cây gia vị được nhiều người ưa chuộng.

Ở Việt Nam việc canh tác ớt chưa được đầu tư thâm canh cao nên năng suất thấp, thường chỉ đạt 800 – 1.000kg/1.000m2.

Chuẩn bị đất:

Cày xới phơi đất kỹ, lên luống cao 20 cm, rộng 1m. Bón lót: 100 kg vôi và 1 tấn phân chuồng, 50 kg super lân, 3 kg Kali, 2 kg Calcium nitrat, 10-15 kg phân NPK (16-16-8) cho 1.000 m2. Sử dụng màng phủ nông nghiệp để hạn chế cỏ dại, sâu bệnh, giảm hao hụt phân bón, nước tưới.

Gieo trồng:

Xử lý hạt ớt bằng nước ấm 3 sôi 2 lạnh (530C) trong 30 phút, hong khô dưới ánh nắng mặt trời, gieo hạt vào bầu đã được xử lý thuốc để ngăn ngừa mầm bệnh, sâu hại tấn công. Khi cây có từ 4-5 lá thật (30-35 ngày sau gieo), thì chuyển cây con ra trồng.

Ớt có thể trồng theo nhiều khoảng cách khác nhau:

+ Khoảng cách trồng 50 x (30 – 40) cm.

+ Khoảng cách 70 x (50 – 60) cm.

Chăm sóc:

– Tưới nước:

Sau khi trồng 3-5 ngày, tiến hành trồng dặm. Mùa mưa cần đảm bảo thoát nước tốt, mùa nắng phải tưới nước đầy đủ. Nếu khô hạn kéo dài thì tưới rãnh (tưới thấm) là phương pháp tốt nhất, khoảng 3-5 ngày tưới/lần. Tưới thấm vào rãnh tiết kiệm nước, không văng đất lên lá, giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Mùa mưa cần chú ý thoát nước tốt, không để nước ứ đọng lâu.

– Tỉa nhánh:

Tỉa bỏ các cành, lá dưới điểm phân cành để cây ớt phân tán rộng và gốc được thông thoáng. Nên tỉa cành lúc nắng ráo.

– Làm giàn:

Giàn được làm bằng cây hay dây ni lông, giàn giữ cho cây đứng vững, dễ thu trái, kéo dài thời gian thu hoạch, hạn chế trái bị sâu bệnh do đỗ ngã. Mỗi hàng ớt cắm 2 trụ cây lớn ở 2 đầu, dùng dây căn dọc theo hàng ớt nối với 2 trụ cây, khi cây ớt cao tới đâu căng dây tới đó để giữ cây đứng thẳng.

– Bón phân:

Phân nên chia làm 4 lần bón:

Lần 1: 20 – 25 ngày sau khi trồng: 4kg Urê + 3kg Kali + 10kg NPK (16-16-8) + 2kg Calcium nitrat.

Lần 2: Khi ớt đã đậu trái đều: 6kg Urê + 5kg Kali + 10 – 15kg NPK (16-16-8) + 2kg Calcium nitrat.

Lần 3: Khi bắt đầu thu trái:6kg Urê + 5kg Kali, 10 – 15kg NPK (16-16-8) + 3kg Calcium nitrat.

Lần 4: Khi thu hoạch rộ: 4kg Urê + 4kg Kali, 10-15kg NPK (16-16-8) + 3kg Calcium nitrat.

Trong giai đoạn nuôi trái, trái ớt thường bị thối đuôi do thiếu canxi. Vì vậy, nhà nông cần phun bổ sung thêm Canxi, có thể bằng Clorua canxi (CaCl2) phun định kỳ 7-10 ngày/lần để ngừa trái bị thối đuôi. Đồng thời, phun thêm phân vi lượng có Bo để ớt dễ đậu trái và ngừa trái bị sẹo.

Thu hoạch:

Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu. Ngắt cả cuống trái, tránh làm gãy nhánh. Ớt cay cho thu hoạch 35-40 ngày sau khi trổ hoa, ở các lứa rộ thu hoạch ớt mỗi ngày, bình thường cách 1-2 ngày thu 1 lần, nếu chăm sóc tốt thời gian thu hoạch có thể kéo dài hơn 2 tháng năng suất trái đạt 20-30 tấn/ha.

Một số sâu, bệnh thường gặp:

Bọ trĩ: Sống tập trung trong đọt non hay mặt dưới lá non, có thể dùng Regent, Confidor, Admire để phòng trị.

Sâu xanh đục trái: Sâu phá hại búp non, nụ hoa, cắn điểm sinh trưởng, đụt thủng quả, khi trái ớt còn xanh cho đến lúc gần chín.

Bọ phấn trắng: Bọ chích hút làm lá biến vàng cây suy yếu, là tác nhân truyền virus từ cây bệnh sang cây khỏe. Có thể sử dụng ong ký sinh ngoài tự nhiên hoặc thuốc Admire, Confidor, phun ở mặt dưới lá để phòng trị.

Sâu ăn tạp: Sâu gây hại trên lá,? và cây con. Phòng trị bằng cách ngắt bỏ tổ trứng, tổ sâu non hoặc dùng: Sumicidin, Cymbus, Karate, Decis … có thể pha trộn với Atabron., phun vào giai đoạn trứng sắp nở sẽ cho hiệu quả cao.

Bệnh héo cây con: Do nấm Rhizoctonia solani, Phythophthora sp., Pythium sp gây ra. Bệnh thường gây hại cây con trong líp ương hoặc sau khi trồng khoảng một tháng tuổi. Dùng Validacin, Anvil, Rovral, Ridomil; Copper -B, Tilt super, Bonanza để phòng trị.

Bệnh héo chết cây: Do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum, nấm Fusarium oxysporum, F. lycopersici, Sclerotium sp. Cây bị bệnh héo vào buổi trưa, tươi lại vào buổi chiều, sau vài ngày cây bệnh chết hẵn. Đối với bệnh do vi khuẩn cần nhổ và tiêu hủy; dùng vôi bột rãi vào đất, hoặc Starner, New Kasuran, Copper Zin C tưới nơi gốc cây hay phun ngừa bằng Kasumin. Đối với cây bệnh do nấm cần phát hiện sớm, phun ngừa hoặc trị bằng thuốc Copper B, Derosal, Appencarb super, Ridomil, Score.

Bệnh thán thư: Do nấm Colletotrichum sp gây ra. Bệnh gây hại trên lá, thân, hoa và cả trái. Bệnh lây lan mạnh vào mùa mưa, làm giảm năng suất trầm trọng. Có thể sử dụng một số loại thuốc sau để phòng trị: Copper B, Manzate, Mancozeb, Antracol, Ridomil,…

Để mua giống ớt được đảm bảo bạn nên tìm tới các đại lý nhập khẩu giống cây lớn như công ty rau quả Việt Nam. Về xuất khẩu bạn nên liên hệ với các doanh nghiệp lớn như doanh nghiệp ớt Trung Thành.

Kĩ Thuật Trồng Ớt Xuất Khẩu

Ớt cay chứa nhiều chất capsaicine có tác dụng gây cay, kích thích ngon miệng và thúc đẩy nhanh quá trình tiêu hoá. Vì vậy, ớt cay đã trở thành cây gia vị được nhiều người ưa chuộng.

Cày xới phơi đất kỹ, lên luống cao 20 cm, rộng 1m. Bón lót: 100 kg vôi và 1 tấn phân chuồng, 50 kg super lân, 3 kg Kali, 2 kg Calcium nitrat, 10-15 kg phân NPK (16-16-8) cho 1.000 m2. Sử dụng màng phủ nông nghiệp để hạn chế cỏ dại, sâu bệnh, giảm hao hụt phân bón, nước tưới.

Xử lý hạt ớt bằng nước ấm 3 sôi 2 lạnh (53°C) trong 30 phút, hong khô dưới ánh nắng mặt trời, gieo hạt vào bầu đã được xử lý thuốc để ngăn ngừa mầm bệnh, sâu hại tấn công. Khi cây có từ 4-5 lá thật (30-35 ngày sau gieo), thì chuyển cây con ra trồng.

Ớt có thể trồng theo nhiều khoảng cách khác nhau:

+ Khoảng cách trồng 50 x (30 – 40) cm.

+ Khoảng cách 70 x (50 – 60) cm.

Sau khi trồng 3-5 ngày, tiến hành trồng dặm. Mùa mưa cần đảm bảo thoát nước tốt, mùa nắng phải tưới nước đầy đủ. Nếu khô hạn kéo dài thì tưới rãnh (tưới thấm) là phương pháp tốt nhất, khoảng 3-5 ngày tưới/lần. Tưới thấm vào rãnh tiết kiệm nước, không văng đất lên lá, giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Mùa mưa cần chú ý thoát nước tốt, không để nước ứ đọng lâu.

– Tỉa nhánh:

Tỉa bỏ các cành, lá dưới điểm phân cành để cây ớt phân tán rộng và gốc được thông thoáng. Nên tỉa cành lúc nắng ráo.

– Làm giàn:

Giàn được làm bằng cây hay dây ni lông, giàn giữ cho cây đứng vững, dễ thu trái, kéo dài thời gian thu hoạch, hạn chế trái bị sâu bệnh do đỗ ngã. Mỗi hàng ớt cắm 2 trụ cây lớn ở 2 đầu, dùng dây căn dọc theo hàng ớt nối với 2 trụ cây, khi cây ớt cao tới đâu căng dây tới đó để giữ cây đứng thẳng.

– Bón phân:

Phân nên chia làm 4 lần bón:

Lần 1: 20 – 25 ngày sau khi trồng: 4kg Urê + 3kg Kali + 10kg NPK (16-16-8) + 2kg Calcium nitrat.

Lần 2: Khi ớt đã đậu trái đều: 6kg Urê + 5kg Kali + 10 – 15kg NPK (16-16-8) + 2kg Calcium nitrat.

Lần 3: Khi bắt đầu thu trái:6kg Urê + 5kg Kali, 10 – 15kg NPK (16-16-8) + 3kg Calcium nitrat.

Lần 4: Khi thu hoạch rộ: 4kg Urê + 4kg Kali, 10-15kg NPK (16-16-8) + 3kg Calcium nitrat.

Chú ý:

Trong giai đoạn nuôi trái, trái ớt thường bị thối đuôi do thiếu canxi. Vì vậy, nhà nông cần phun bổ sung thêm Canxi, có thể bằng Clorua canxi (CaCl2) phun định kỳ 7-10 ngày/lần để ngừa trái bị thối đuôi. Đồng thời, phun thêm phân vi lượng có Bo để ớt dễ đậu trái và ngừa trái bị sẹo.

Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu. Ngắt cả cuống trái, tránh làm gãy nhánh. Ớt cay cho thu hoạch 35-40 ngày sau khi trổ hoa, ở các lứa rộ thu hoạch ớt mỗi ngày, bình thường cách 1-2 ngày thu 1 lần, nếu chăm sóc tốt thời gian thu hoạch có thể kéo dài hơn 2 tháng năng suất trái đạt 20-30 tấn/ha.

Một số sâu, bệnh thường gặp:

Bọ trĩ: Sống tập trung trong đọt non hay mặt dưới lá non, có thể dùng Regent, Confidor, Admire để phòng trị.

Sâu xanh đục trái: Sâu phá hại búp non, nụ hoa, cắn điểm sinh trưởng, đụt thủng quả, khi trái ớt còn xanh cho đến lúc gần chín.

Bọ phấn trắng: Bọ chích hút làm lá biến vàng cây suy yếu, là tác nhân truyền virus từ cây bệnh sang cây khỏe. Có thể sử dụng ong ký sinh ngoài tự nhiên hoặc thuốc Admire, Confidor, phun ở mặt dưới lá để phòng trị.

Sâu ăn tạp: Sâu gây hại trên lá,? và cây con. Phòng trị bằng cách ngắt bỏ tổ trứng, tổ sâu non hoặc dùng: Sumicidin, Cymbus, Karate, Decis … có thể pha trộn với Atabron., phun vào giai đoạn trứng sắp nở sẽ cho hiệu quả cao.

Bệnh héo cây con: Do nấm Rhizoctonia solani, Phythophthora sp., Pythium sp gây ra. Bệnh thường gây hại cây con trong líp ương hoặc sau khi trồng khoảng một tháng tuổi. Dùng Validacin, Anvil, Rovral, Ridomil; Copper -B, Tilt super, Bonanza để phòng trị.

Bệnh héo chết cây: Do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum, nấm Fusarium oxysporum, F. lycopersici, Sclerotium sp. Cây bị bệnh héo vào buổi trưa, tươi lại vào buổi chiều, sau vài ngày cây bệnh chết hẵn. Đối với bệnh do vi khuẩn cần nhổ và tiêu hủy; dùng vôi bột rãi vào đất, hoặc Starner, New Kasuran, Copper Zin C tưới nơi gốc cây hay phun ngừa bằng Kasumin. Đối với cây bệnh do nấm cần phát hiện sớm, phun ngừa hoặc trị bằng thuốc Copper B, Derosal, Appencarb super, Ridomil, Score.

Bệnh thán thư: Do nấm Colletotrichum sp gây ra. Bệnh gây hại trên lá, thân, hoa và cả trái. Bệnh lây lan mạnh vào mùa mưa, làm giảm năng suất trầm trọng. Có thể sử dụng một số loại thuốc sau để phòng trị: Copper B, Manzate, Mancozeb, Antracol, Ridomil,…

Để mua giống ớt được đảm bảo bạn nên tìm tới các đại lý nhập khẩu giống cây lớn như công ty rau quả Việt Nam. Về xuất khẩu bạn nên liên hệ với các doanh nghiệp lớn như doanh nghiệp ớt Trung Thành.

Nguồn: Sưu tầm

Tìm bài này trên Google:

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Cây Ớt Sừng Trâu

Ngày đăng: 2016-01-23 07:39:20

Giống ớt sừng thường có 2 loại trái: ớt trắng và ớt xanh (trái già có màu xanh đến xanh đen).Nên chọn giống ớt xanh cho năng suất và chất lượng tốt hơn ớt trắng.

1. Chuẩn bị đất ươm cây ớt con

– Chuẩn bị đất tơi xốp, thoát nước tốt, phối trộn một ít phân chuồng hoai mục gieo ớt giống.

– Dùng ngón tay hay que nhỏ vạch từng hàng rồi đặt hạt ớt vào sau đó lắp nhẹ lại.

– Nên gieo cạn (1cm) và phủ nhẹ một lớp xơ dừa hay trấu hoặc rơm mục để giữ ẩm bề mặt đồng thời dễ nhỏ cây con đem trồng sau này

– Cần chú ý xử lý kiến trong giai đoạn này vì hạt ớt khá nhỏ nên dễ bị kiến tha mất hạt.

2. Hướng dẫn cách tưới nước cây ớt sừng

– Tưới nước đủ ẩm , sau 25 ngày có thể đem cây con ra đồng trồng được.

– Cây cao khoảng 10 – 12cm trồng là thích hợp nhất.

– Nên trồng vào lúc chiều mát, và tưới đẫm ngay sau khi trồng để hạt đất tan ra và bám được lên rễ cây non. Nếu trồng gặp trời nắng gắt nên che chắn cho cây.

3. Mật độ trồng cây ớt sừng

– Mật độ trồng khoảng 18.000 – 20.000cây/1000m2; luống trồng có thể trải màng phủ nông nghiệp để hạn chế cỏ hoặc không.

4. Cách bón phân cho cây ớt sừng

Sau khi trồng 10 ngày tiến hành bón thúc cho cây con. Tuỳ vào quá trình phát triển và lượng phân bón lót mà chế độ bón thúc có khác nhau.

-Với những vùng trồng có sử dụng màng phủ nông nghiệp thì việc bón thúc là rất quan trọng vì khi phủ rồi rất khó bón phân và tốn công.

– Còn với vùng trồng không dùng màng phủ thì có thể để ớt bén rễ (10 ngày sau khi trồng) thì tiến hành bón phân.

Lượng phân chuồng với trồng ớt là rất quan trọng. Nó quyết định đến thời gian thu hoạch sau này. Nếu lượng phân chuồng ít thì thời gian ớt cho thu hoạch sẽ ngắn lại. Quy trình chung cho giai đoạn này là dùng phân DAP liều 1kg/1 lần bón/1.000m2 ngâm rồi tưới trực tiếp vào gốc cây vào chiều mát. Nếu diện tích trồng lớn có thể bón trước lượng phân này trong quá trình làm đất và tưới đủ ẩm để hạn chế phân bay hơi (bốc phân). Nếu dùng DAP liều như trên bón liên tục trong 10 ngày đầu (2 ngày/lần) là rất tốt cho cây con. Lúc này hệ thống rễ và cây đẻ nhánh nhiều. Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất của cây trồng.

Chú ý: không dùng phân đạm (UREA) cho cây ớt để hạn chế bệnh ở cây.

Chúng ta có thể bổ sung định kỳ 2 tuần/lần phân Canxi Nitrate với liều 2kg/1.000m2 để tăng sức đề kháng và giảm hiện tượng rụng hoa, rụng trái sau này.

Lượng phân bón dùng cho 1.000m2 ớt như sau:

-Vôi 100kg

-Phân chuồng: 2.100 – 3.000kg ( 3 khối)

– Lân 100kg

– NPK 100kg

-DAP 50kg

– Canxi Nitrate 15kg

Chia đều ra các lần bón; bón càng nhiều lần càng tốt; tuỳ vào điều kiện phát triển của cây mà có thể giảm bớt lượng NPK.

5. Các biện pháp phòng trừ một số Sâu bệnh trên cây ớt sừng

Ớt có thể gặp phải các vấn đề sau

– Sâu, rầy, bọ trĩ dùng các thuốc trị sâu, rầy bọ trĩ thông thường như Actara, Karate, Masal, Confidor, Ba Đăng, Rholam,… liều dùng theo hướng dẫn trên bao bì.

– Bệnh đốm lá, thán thư có thể dùng các thuốc như Mancozeb; Zineb; Antracol; Anvil, Daconil dạng nước,… liều dùng theo hướng dẫn in trên bao bì.

– Ngoài ra, với những vùng trồng ớt thường xuyên chúng ta có thể gặp các bệnh do vi khuẩn gây ra như héo xanh, thối thân,… Những trường hợp này gần như không có thuốc đặc trị hiệu quả. Phương pháp tốt cho trường hợp này là phòng bệnh. Chúng ta có thể sử dụng chế phẩm trichoderma ủ trong phân chuồng hoặc cung cấp trực tiếp vào đất (đất phải đủ ẩm). Biện pháp này là phương án phòng hiệu quả với cả 2 bệnh trên.

– Thuốc có thể dùng kèm theo trong trường hợp vườn ớt đã bị bệnh là Phytoside liều 2g/l phun liên tục trong 2 tuần (3 ngày/lần). Thuốc này không có tác dụng làm cây bệnh hết mà chỉ có tác dụng không lây lan sang cây khác.

Tuy nhiên, nếu dùng đúng lịch trình phân bón thì bênh hại gần như giảm đáng kể nhất là triệu chứ rụng trái, thối trái do thán thư.

Nguồn : Tin tức Nông nghiệp

TIN TỨC KHÁC :

Quy Trình Kỹ Thuật Sản Xuất Nấm Bào Ngư

1. Đặc tính sinh học

Ẩm độ nguyên liệu (cơ chất) 65-70%, ẩm độ không khí 85-90%, ánh sáng vừa phải (đọc sách được), độ thông thoáng vừa phải, pH=7.

Nấm sò sử dụng xenlulo trực tiếp, nấm mọc thành cụm dạng hình phễu gồm mũ nấm, cuống nấm và rễ nấm. Có loại nấm sò trắng, sò tím, sò nâu.

2. Thời vụ

Có thể trồng quanh năm, nhưng thuận lợi nhất là từ tháng 9 đến tháng 4 dương lịch.

3. Nguyên liệu và xử lý nguyên liệu:

Có thể làm nấm sò từ nguyên liệu rơm rạ, bông phế liệu, mùn cưa, bã mía, vỏ hạt cà phê…

a. Cách xử lý nguyên liệu bằng ủ (không phải hấp):

Nguyên tắc chung: Rơm rạ khô được làm ướt trong nước sạch, sau đó xử lý nước vôi (tỷ lệ 1 tấn nguyên liệu cần 20-30kg vôi tôi) theo những cách sau:

+ Đổ nước vôi đã gạn vào bể ngâm rơm 15-30 phút, sau vớt rơm rạ ủ đống

+ Ngâm rơm rạ khô xuống ao hồ, kênh rạch…sạch vớt lên bờ ủ đống, cứ một lớp rơm rạ 20-30cm tưới một lớp nước vôi (ít làm vì nước ao hồ thường bẩn).

+ Trải ra sân, bãi sạch phun nuớc cho đến khi rơm rạ ngấm đủ nước có màu nâu sẫm, lấy nước sôi tưới lên lượt cuối và ủ đống.

+ Lợi dụng trời mưa tung ra sân, sau tưới lại bằng nước vôi đợt cuối và ủ đống. Rơm rạ sau khi xử lý bằng nước vôi có màu sáng, thơm, hơi có mùi vôi nhẹ là được. Cách phổ biến là xử lý rơm trong bể nước có vôi.

Chú ý: Trong khi đảo, chỉnh độ ẩm thật chuẩn đạt 65% (văt chặt chỉ có nước ước vân tay), nếu quá ẩm hoặc quá khô cần phải chỉnh lại bằng cách phơi hay bổ sung thêm nước ủ lại 1-2 ngày sau mới trồng. Băm rơm thành từng đoạn 7-10cm.

Quá trình xử lý nguyên liệu theo sơ đồ sau:

Đối với ủ nguyên liệu bông phế thải: Ngâm bông trong nước vôi (hòa 4kg vôi tôi với 1m3 nước), vớt ủ đống có kệ kê ở đáy đống ủ. Đống ủ rộng 1,2-1,5m, cao 1,5-1,8m, dài tối thiểu 1,5m; quây nilon chung quanh, để hở đỉnh. Sau 3-4 ngày, xé tơi bông và ủ lại 3-4 ngày nữa rồi đảo đều trước khi cấy giống.

b. Cách xử lý nguyên liệu bằng hấp khử trùng:

Rơm rạ chặt ngắn 10-15cm ngâm trong nước vôi 15-20 phút để ráo nước rồi ủ 2-3 ngày. Bông phế loại làm ướt như trên, ủ 3-4 ngày, xé tơi đảo đều, nếu quá ẩm phải phơi lại. Mùn cưa tạo độ ẩm rồi ủ 4-6 ngày. Các nguyên liệu này sau kiểm tra đủ độ ẩm trộn thêm 5-10% cám gạo hoặc cám ngô. Đóng nguyên liệu vào túi nilon chịu nhiệt kích thước 25-35cm, trọng lượng 1,5-2kg/túi, cổ túi nút ống nhựa và bông không thấm nước. Sau đó đưa vào hấp khử trùng trong nồi áp suất (1,3-1.4 atmotphe, nhiệt độ121-125oC thời gian 180-240 phút). Ngoài cách trên có thể hấp trong thùng phuy (cách thủy) ở nhiệt độ 100oC, thời gian 10-20 giờ. Sau khi hấp lấy bịch ra để nơi sạch sẽ cấy giống trong hộp cấy và phòng vô trùng. Cách hấp này rất tốt, hạn chế nhiễm bệnh, dùng ít giống, năng suất cao.

4. Cấy giống nấm sò

Nguyên liệu sau khi ủ, đóng vào túi nilon kích cỡ 30 x 40cm (mùa hèo) hoặc 35 x 50cm (mùa đông). Bông phế liệu dùng túi 25 x 35cm. Khu vực cấy giống và ươm cần sạch sẽ để tránh các loại n bệnh khác. Băm nguyên liệu thành đoạn ngắn 5-7cm.

Cho nguyên liệu vào túi đã hàn thành lớp cao 5-7cm, dùng tay nén chặt tạo khối tròn đều phẳng, rắc một lớp giống xung quanh lớp rơm rạ sát phía ngoài thành túi (tránh rơi vào trong làm giống chết và sinh bệnh), cứ làm như vậy đủ 3 lớp, lớp trên cùng rắc giống đều trên bề mặt. Sau đó dùng một cục bống bằng miệng chén uống nước đặt trên miệng túi lấy dây cao su buộc nút bông (bông không thấm nước tạo cho thoát nước).

Chú ý: Khi nén rơm phải sát mặt túi rắc giống nấm sát túi và nhìn thấy được. Rơm hơi ướt nén vừa phải, trọng lượng túi đạt 2,5-3,0kg, túi n này gọi là bịch nấm, 1 tấn nguyên liệu được 700 túi. Đối với bông phế thải trọng lượng bich 1,5-1,6kg.

Ươm và rạch bịch

*Ươm giống: Bịch nấm được cấy chuyển vào nơi ươm, đặt trên giá hoặc dưới đất khoảng cách các bịch 5-7cm, nhà ươm cần thoáng mát, sạch sẽ và không cần ánh sáng, thời gian ươm 20-25 ngày.

Bịch nấm nếu tốt, sau trồng 2 ngày từ hạt nấm có sợi trắng ra ăn dần vào nguyên liệu tạo màu trắng đồng nhất, rơm chuyển sang màu vàng, bịch rắn chắc. Nếu bịch n không phát triển tốt sợi sẽ co lại hoặc tạo vùng xanh, đen do nấm mốc dại, nên loại riêng ra và để xa nơi nuôi trồng.

Chú ý: Phòng ngừa chuột hại.

* Rạch bịch: Bịch nấm đã phát triển tốt sau 20-25 ngày kể từ khi cấy giống, quan sát thấy sợi nấm ăn cách đáy 1cm có thể rạch bịch. Dùng dao nhọn, sắc rạch 4-6 đường xung quanh, khoảng cách các đường rạch đều nhau, chiều dài vết rạch 3-4 cm theo chiều dọc bịch nấm. Sau đó bỏ bông nút và nén bịch, dùng dây nilon buộc miệng túi (nếu bịch nguyên liệu bông không cần phải nén).

6. Chăm sóc và thu hái nấm

* Treo bịch nấm bằng dây nilon tạo thành cây lên phía trên lán. Các bịch nấm cách nhau 10-15cm để khi nấm ra không chạm vào nhau và dễ thu hái. Khoảng 2-3 hàng nấm tạo lối đi rộng 40cm để đi lại, chăm sóc.

* Tưới nước: Sau khi rạch bịch chỉ tưới nước tạo ẩm nền nhà. Khi bịch đã rạch 4-6 ngày sau nấm bắt đầu lên, tiến hàng tưới nước bên ngoài túi. Nguyên tắc là tưới nước dạng sương mù, lượng ít nhưng thời gian tưới kéo dài trong một lần tưới đảm bảo bề mặt mũ nấm lúc nào cũng có lớp nước đọng ở trên.

Tùy theo lượng nấm ra nhiều hay ít, độ lớn của nấm, độ ẩm không khí cao hay thấp để đảm bảo số lần tưới và lượng tưới trong ngày, trung bình 4-6 lần tưới. Nếu thiếu nước, nấm cằn cỗi, nhẹ cân, ăn dai; nếu thừa nước, nấm bị vàng, thối rữa. Khi thu hái hết một đợt ngưng tưới vào bịch (xung quanh vẫn giữ ẩm), khoảng 4-6 ngày sau nấm ra tiếp các đợt 2, 3, 4, 5…việc chăm sóc tương tự.

Chú ý: Giai đoạn nấm phát triển cần ánh sáng vừa phải, trong phòng mở cửa có thể đọc được sách, độ ẩm cao, không có ánh sáng trực tiếp chiếu vào, thoáng khí nhưng không được thổi trực tiếp vào bịch nấm (làm các nấm đinh ghim bị teo, cây n bị vàng sẽ làm kém chất lượng và giảm năng suất).

*Thu hái nấm: Nấm sò mọc thành cụm nên khi nấm lớn cần thu hái cả cụm. Hái nấm đúng độ tuổi sẽ đạt năng suất, chất lượng cao nhất (quan sát mũ nấm phía ngoài đã căng nhưng giữa mũ và nấm còn hơi lõm, gốc ngắn mgập màu trắng) là đúng tuổi, hái nấm 1-2 lần/ngày (sáng sớm, chiều tối).

Khi thấy mũ nấm đã căng hết, mép mũ nấm có răng cưa nếu thấy làn khói trắng bay ra là nấm đã già, chất lượng kém. Hái nấm không được để sót lại phần gốc nấm trên bịch, nếu sót phải cấu bỏ sạch để lần sau nấm ra tốt hơn. Tổng thời gian thu hái nấm kéo dài 40-50 ngày kể từ ngày hái nấm đầu tiên. Khi thu hái sau một thời gian túi nấm bị xẹp cần nén lại và chăm sóc như trước. Nắng suất n tươi đạt 600-700kg/1 tấn nguyên liệu.

7. Chế biến nấm

* Nấm tươi: Hái nấm xong dùng dao sắt cắt sạch phần gốc, tách những cụm nấm lớn thành cụm nhỏ cho vào túi PE buộc kín để trong rổ nhựa, vận chuyển nhẹ nhàng đến nơi tiêu thụ. Nếu bảo quản ở 5-8C, thời gian để được 24h vẫn đảm bảo chất lượng.

* Phơi hoặc sấy khô: Dùng tay xé nhỏ cây nấm theo chiều dọc từ cuống đến mũ nấm, phơi sấy ở nhiệt độ 40-45oC nấm sẽ có màu trắng vàng, thơm. Sau khi phơi, sấy nấm phải khô, giòn (ẩm độ dưới 12%) cần cho vào túi PE không thủng, cho 2 lần túi buộc chặt miệng túi để nơi khô ráo. Khi sấy nếu nấm già có màu nâu sẫm, nếu quá lửa nấm bị đen đầu làm giảm chất lượng. Làm giàn sấy đơn giản bằng bếp than để sấy nấm.

* Nấm muối: Nấm hái xong cắt cuống, thả vào chậu nước lạnh rửa sạch. Đun sôi nước và chần nấm 5-7 phút, nhấn nấm chìm liên tục trong nước sôi (nếu không nấm có màu đen, loang lổ) vớt ra thả ngay vào nước lạnh. Vớt nấm đã chần đó vào túi, vại (chum): cứ 1kg nấm cho 0,2 lít dung dịch muối bão hòa + 0,3kg muối khô + 3 gam axit citric.

Buộc chặt túi hoặc đậy nắp, phía trên dùng vỉ tre ấn chìm nấm trong dung dịch muối. Sau 15 ngày ổn định nồng độ muối (22%), nấm có màu vàng nhạt, mùi thơm, pH=4, dung dịch trong suốt là đạt yêu cầu.

(Nguồn: Hỏi đáp kỹ thuật trồng nấm ở hộ gia đình / Trương Quốc Tùng . – H.: Khoa học tự nhiên và công nghệ, 2009. – 103tr.; 19cm. Đăng ký cá biệt: VB20102984)