Top 5 # Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Cây Dâu Tây Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Inkndrinkmarkers.com

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Cây Dâu Tây

1. Đặc điểm thực vật học:

Thân: Thuộc loại cây thân thảo, sống đa niên, thân ngắn với nhiều lá mọc rất gần nhau. Chồi nách được mọc từ nách lá, tuỳ vào điều kiện môi trường và đặc tính ra hoa của từng giống, các chồi nách có thể phát triển thành thân nhánh, thân bò hoặc phát hoa.

Lá: Lá có hình dạng, cấu trúc, độ dày và lượng lông tơ thay đổi tùy theo giống. Hầu hết các giống dâu tây đều có lá kép với 3 lá chét, một số giống có lá kép với 4 hoặc 5 lá chét. Mép lá có răng cưa. Cuống lá dài, cuống lá thường có màu trắng khi lá còn non và chuyển sang màu đỏ của đất khi lá già.

Hoa: Phân chia thành nhiều nhánh, mỗi nhánh có một hoa. Hoa có 5 cánh tràng mỏng, màu trắng, hơi tròn. Hoa lưỡng tính, có 25-30 nhị và 50-500 nhụy. Dâu tây là loài giao phấn nhưng thông qua hình thức tự thụ phấn để gia tăng tần suất các gen mong muốn và tạo ra một số loài.

Quả: là một loại quả giả do đế hoa phình to, quả thật nằm ở bên ngoài quả giả. Quả có hình bầu dục, quả non có màu xanh lục, khi quả chín, quả có màu hồng hoặc màu đỏ tuỳ từng giống. Quả Dâu tây có mùi thơm, vị ngọt lẫn vị chua.

Rễ: Hệ thống rễ chùm, rễ phát triển ở độ sâu cách mặt đất khoảng 30cm.

2. Yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh:

Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển từ 18-22 0 C. Ánh sáng cần thiết cho cây dâu tây sinh trưởng và phát triển, cường độ ánh sáng mạnh thì mới sinh trưởng mạnh, thiếu ánh sáng thường ảnh hưởng đến khả năng ra hoa kết quả. Độ ẩm cần thiết cho sự phát triển của cây dâu tây trên 84%, ẩm độ không khí cao và mưa kéo dài thường gây bệnh cho cây. Cây dâu tây thích hợp với loại đất thịt nhẹ, hàm lượng chất hữu cơ cao, đất giữ ẩm nhưng thoát nước tốt. Đất có hàm lượng chất hữu cơ cao sẽ giúp cho cây dâu tây phát triển tốt, đạt năng suất cao và kéo dài thời gian thu hoạch quả.

Phần II. Kỹ thuật trồng và chăm sóc:

1. Giống: Hiện nay, tại Lâm Đồng dâu tây sử dụng 2 cơ cấu giống chính là giống ngoài trời: Giống Mỹ đá, Mỹ thơm (Pajero), Langbiang… và giống trong nhà mái che: Giống Newzealand và giống Akihime.

Tiêu chuẩn lựa chọn giống xuất vườn:

Giống cây dâu tây hiện nay chủ yếu nhân giống vô tính theo 2 cách:

Cấy mô: Cây con sẽ đạt được tiêu chuẩn tốt, độ đồng điều cao, phát huy ưu điểm của giống, sức sống khỏe, năng suất cao, sạch bệnh.

Tách cây con từ ngó cây mẹ: Phương pháp này dễ làm, chủ động nhưng ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của cây mẹ. Cây con không đạt tiêu chuẩn và sức sống như cây cấy mô. Chỉ nên lấy cây con từ tách ngó cây mẹ dưới 01 năm tuổi thì mới đảm bảo chất lượng giống.

Giống trồng từ ngó: 66% và Giống trồng từ cây mô: 34%

2. Chuẩn bị đất: Chọn đất thịt nhẹ, cao ráo, thoát nước tốt. Cây dâu tây là đối tượng của nhiều loại sâu, bệnh, do đó biện pháp chọn đất, làm đất, xử lý đất phải chú trọng đúng mức để hạn chế nguồn bệnh ban đầu lây lan từ đất.

Vệ sinh đồng ruộng thu dọn tất cả tàn dư cây trồng trước, làm đất xử lý vôi và các loại thuốc sâu, thuốc bệnh.

3. Trồng và chăm sóc:

Luống trồng cao 20-25cm ở vùng đất thấp; 15-20cm ở vùng đất cao.

Trong nhà nylon: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rãnh 1,2m-1,3m; cây x cây: 35-40 cm, mật độ 40.000-45.000 cây/ha.

Ngoài trời: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rảnh 1,2m-1,3m, cây x cây: 40-45cm. mật độ 35.000-40.000 cây/ha. Với khí hậu Đà Lạt nếu trồng mật độ dày sẽ dễ phát triển bệnh cây.

Trồng phải đặc cây thẳng với mặt đất, đào lỗ đủ sâu để lấp hết bầu rễ của cây, tránh làm vỡ bầu cây con.

– Ngắt chùm hoa, cắt tỉa ngó: Để cây sinh trưởng mạnh và ổn định trong giai đoạn đầu nên ngắt bỏ chùm hoa bói đầu tiên để tăng cường sinh trưởng và ức chế phát dục.

Trong giai đoạn thu hoạch, để trái lớn đều nên cân đối giữa khả năng phát triển của khung tán và số lượng hoa trái trên cây nếu nụ, hoa, trái ra nhiều cần tỉa bỏ những nụ, hoa, trái dị dạng và sâu bệnh.

Nếu không tận dụng ngó để nhân giống thì nên cắt bỏ toàn bộ ngó.

Giai đoạn đầu khi thân lá cây chưa phủ luống có thể để ngó với khoảng cách 15 cm (5-6 ngó/cây). Để tăng cường sinh trưởng cây ban đầu, hạn chế ngó đâm rễ phụ trên luống.

– Tỉa thân lá: Đảm bảo mật độ phân tán cây dâu cân đối nên để từ 3-4 thân/gốc. Do đặc điểm của giống, chế độ phân bón, thời tiết, chăm sóc khả năng phân tán, ra lá sẽ khác nhau. Tỉa bớt các lá già, sâu bệnh, lá bị che khuất tầng dưới. Chú ý không nên tỉa quá nhiều sẽ mất khả năng quang hợp của cây. Các bộ phận của cây sau khi cắt tỉa cần phải tiêu huỷ ở xa vườn trồng.

– Che phủ đất: Dùng tấm nhựa để che phủ mặt luống trồng dâu. Phương pháp này có các ưu điểm như sau: Giữ ẩm cho luống trồng, gia tăng nhiệt độ cho luống trồng (phủ nhựa đen) phù hợp cho sinh trưởng cây dâu đồng thời hạn chế một số nấm bệnh, cách ly trái tiếp xúc với đất hạn chế bệnh thối trái. Hạn chế cỏ dại và rửa trôi phân bón.

Hiện nay có 3 cách che phủ luống được áp dụng: Dùng nhựa PE (thích hợp cho trồng dâu trong nhà nylon). Dùng cỏ khô, tro trấu. Dùng cỏ khô kết hợp với lưới nylon trắng.

Tuy nhiên việc che phủ đất tại vùng đất thấp thường phát sinh sên nhớt.

Tưới nước: Sử dụng nguồn nước không bị ô nhiễm, nước giếng khoan, nước suối đầu nguồn, không sử dụng nước thải, nước ao tù, ứ đọng lâu ngày.

Đối với cây dâu nếu ẩm độ đất và ẩm độ không khí cao đều bất lợi đến sinh trưởng, cũng như sâu bệnh phát triển, tối ưu nhất với cây dâu là thiết kế hệ thống tưới ngầm, nhỏ giọt.

– Dàn che: Hiện có 2 kiểu canh tác cây dâu tây là trong nhà che nylon và ngoài trời, sản xuất cây dâu trong dàn che có ưu điểm như:

Hạn chế bệnh cây trong mùa mưa, tuy nhiên nếu thiết kế dàn che không đảm bảo chiều cao, thông gió không tốt thì độ ẩm sẽ tăng và bệnh sẽ phát triển mạnh đồng thời nhiệt độ sẽ gia tăng đột ngột tại một số thời điểm trong ngày ảnh hưởng đến sinh lý của cây.

Hạn chế ngập úng đất, ẩm độ gia tăng và rửa trôi phân bón khi mưa kéo dài hay mưa lớn trong vụ hè thu.

– Phòng ngừa dị dạng trái: Thời kỳ kết trái đầu tiên nếu phát hiện quả dị dạng lập tức hải bỏ và giảm bón lượng đạm.

Giai đoạn hoa nở rộ tránh phun xịt thuốc sâu bệnh với nồng độ cao.

4. Phân bón và cách bón phân:

Phân bón: Lượng phân bón cho 1 ha:

Phân chuồng hoai: 40-50m 3; vôi: 1.500kg; hữu cơ vi sinh: 1.000-2.000 kg;

Phân hóa học (lượng nguyên chất): 100kg N-120kg P 2O 5-120kg K 2O; MgSO 4: 40kg; Boric: 80kg.

Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn tương đương.

Ure: 217kg; super lân: 750 kg; KCl: 200kg.

Bón vôi 2 đợt/năm: Đợt 1: Bón lót 1000 kg; Đợt 2: 06 tháng sau khi trồng bón bổ sung 500 kg.

Lượng phân định kỳ bón năm thứ nhất là 10 lần, nếu 02 tháng bón 01 lần thì sử dụng lượng gấp đôi. Nếu sử dụng phân đơn thì mỗi đợt bón phân định kỳ có thể bón 20 kg ure, 20 kg kali. Acid Boric và MgSO 4 phun xịt định kỳ qua lá.

Chu kỳ kinh doanh của cây dâu thu hoạch trái kéo dài đến 02 năm hoặc hơn. Nếu dâu tây trên 01 năm tuổi chức năng sinh lý của rễ kém ảnh hưởng đến hấp thụ dinh dưỡng, nên bổ sung phân qua lá, định kỳ 10-15 ngày xịt 01 lần.

Bón phân theo nguyên tắc bón ít nhưng bón nhiều lần trong năm. Lượng phân theo khuyến cáo như trên đối với bón định kỳ có thể tăng hay giảm tùy thuộc vào sức sinh trưởng, phát dục, giai đoạn bội thu, chu kỳ ra trái của cây dâu.

Phần III. Sâu hại và biện pháp phòng trừ:

1. Nhện đỏ: Tetranycus Urticae

– Triệu chứng: tấn công mặt dưới lá, làm cho lá non bị chuyển sang màu vàng, là bị khô do cạn kiệt về dinh dưỡng, nhện tấn công lên hoa làm cho nhị hoa bị chết không kết quả được.

– Đặc điểm gây hại: Cả trưởng thành và ấu trùng đều sống tập trung ở mặt dưới phiến lá của những lá non đang chuyển dần sang giai đoạn bánh tẻ.

Nhện gây hại bằng cách chích hút dịch của mô tế bào lá làm cho mặt trên của lá bị vàng loang lổ từng đám, hơi nâu ở phía dưới lá. Ta có thể thấy một lớp mạng nhện nhỏ, mịn ở mặt dưới của lá. Nếu gặp điều kiện thuận lợi nhện sinh sản rất nhanh, mật độ có thể lên đến vài chục con trên một lá, làm cho từng mảng lá bị vàng, khô cháy.

Hoa và trái cũng bị nhện gây hại. Nhện đỏ hút chất dinh dưỡng trong trái làm cho trái bị vàng, sạm và nứt khi trái lớn. hoa có thể bị thui, rụng.

– Đặc điểm hình thái và quy luật phát sinh:

Nhện đỏ có kích thước cơ thể rất nhỏ, lấm tấm như cám, mắt thường khó phát hiện. nhện trưởng thành dài 0,5-1mm, màu hồng, đỏ nhạt, hình cầu (con cái), con đực nhỏ hơn, mình hình bầu dục, hơi nhọn lại ở đuôi, hai đốt cuối màu đỏ chói, trên mình và thân có nhiều lông cứng. Giai đoạn trưởng thành thường kéo dài từ 10-14 ngày.

Con trưởng thành đẻ trứng rời rạc ở mặt dưới phiến lá. Qua kính lúp sẽ thấy trứng hình tròn, lúc mới đẻ có màu trắng hồng, sau đó hoàn toàn chuyển sang màu hồng.

Trứng sau khi đẻ khoảng 4-5 ngày sẽ nở thành nhện non. Ấu trùng có màu xanh lợt, lúc mới nở chỉ có 6 chân, từ tuổi 2 trở đi cho đến khi trưởng thành chúng có 8 chân. Giai đoạn ấu trùng khoảng 6-9 ngày. Mỗi con cái đẻ 1 lần từ 50-100 trứng.

Nhện đỏ thường phát sinh và gây hại nặng trong mùa khô nóng hoặc những thời gian bị hạn trong mùa mưa.

Nhện đỏ lan truyền nhờ gió, nhờ những sợi tơ, mạng nhện mà chúng tạo ra

– Phòng trừ: Dùng thiên địch, thuốc trừ nhện Nissorun, Comite, Ortus, Oramíte,…

– Đặc điểm hình thái: Trưởng thành nhỏ, màu vàng xám, trứng được đẻ trong mô ở các bộ phận non của cây, bọ trĩ cái đẻ trứng được 40-50 trứng.

Bọ trĩ non màu vàng nhạt, sống gây hại chung với bọ trĩ trưởng thành. Bọ trĩ thuộc loại côn trùng biến thái trung gian, bọ trĩ non chuyển sang giai đoạn nhộng giả có thể ở trong lá khô hay vỏ cây, nhưng chủ yếu vẫn là ở trong đất.

Vòng đời của bọ trĩ là 17-20 ngày, một năm có thể có khoảng 20 thế hệ bọ trĩ hoàn thành chu kỳ phát triển.

– Đặc điểm gây hại quy luật phát sinh: Bọ trĩ gây hại chủ yếu trên hoa làm cho quả bị nhỏ, biến dạng. Ngoài ra chúng còn hại lá, búp non và thân, chích hút nhựa làm cây suy kiệt, giảm năng suất thu hoạch. Hoa bị hại chuyển màu nâu. Tuy nhiên trái non vẫn tiếp tục lớn nhưng có màu vàng đồng. Những trái bị triệu chứng này thường nhỏ và cứng, đồng thời những hạt trên bề mặt trái dâu bị lồi ra, bề mặt trái dâu bị rạn và có màu đồng. Nếu cây bị nhiễm nhẹ thì cây bên cạnh không bị ảnh hưởng, nếu cây và trái chín bị nhiễm quá nặng thì bọ trĩ sẽ chuyển sang tấn công những cây bên cạnh và có thể lây lan trên khắp vườn dâu.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Bón phân đầy đủ, cân đối, tỉa bớt lá già, thu gom tiêu hủy tàn dư.

– Đặc điểm hình thái và quy luật phát sinh: Vỏ ốc mỏng, có 4 đến 5 vòng xoắn, màu sắc thay đổi nhưng thường màu xám hạt dẻ nhạt, hay nâu có những vệt hay đốm vàng. Thân ốc mềm và nhớt màu nâu xám, thu hết vào bên trong vỏ khi không hoạt động. Khi hoạt động sên thò đầu và chân ra khỏi vỏ, đầu có 2 đôi râu vòi. Các râu vòi có thể thu rút vào trong đầu. Sên thuộc loai động vật ăn cỏ, ăn vào ban đêm, chúng ăn nhiều loại cây cỏ khác nhau.

– Đặc điểm gây hại: Ốc sên thường xuyên có mặt trên đồng ruộng, nhưng khi trời nắng thì chúng ẩn nấp ở nơi có bóng mát và ẩm ướt như lá chết, nilon, đá để đẻ trứng. Vào ban đêm hoặc vào những ngày mưa ốc sên và nhớt bò ra ngoài để gây hại. Những vết tổn thương này làm giảm đáng kể giá trị của trái và tạo điều kiện để nấm bệnh xâm nhập và phát triển.

– Biện pháp phòng trừ: Luôn giữ vườn dâu thông thoáng, tránh ẩm độ không khí cao trên ruộng. Trong quá trình canh tác tỉa lá, thu trái nếu phát hiện sên, nhớt phải thu bắt. Thu gom toàn bộ gạch, đá…trên ruộng để hạn chế nơi cư trú của các loài sên nhớt. Sử dụng can nhựa có hòa các chất như bả bia hoặc sữa chua để bẫy sên nhớt trên vườn dâu.

Hiện nay, chưa có thuốc BVTV đăng ký để trừ sên nhớt hại dâu tây.

Phần IV. Bệnh hại và biện pháp phòng trừ:

1. Bệnh rối loạn sinh lý trên cây dâu tây:

a. Thời tiết: Nếu trời lạnh nhị hoa sẽ bị chết dẫn đến hoa có màu nâu, nếu thời tiết quá lạnh hoa sẽ bị chết, một số hoa đã thụ phấn sống sót làm cho hoa bị biến dạng. Vào mùa lạnh, khi nhiệt độ quá thấp, tế bào bị đông đá, phần gốc hóa nâu, cây sinh trường kém và mẫn cảm với sâu bệnh.

b. Cường độ sáng cao, tế bào sẽ bị chết, trên lá có những dấu hình tròn.

c. Mưa đá gây dập lá, hoa, quả, tạo cơ hội cho nấm bệnh xâm nhập, cây bị tổn thương lớn, tạo ra nhiều vết nâu trên lá do cây bị xước.

d. Rối loạn dinh dưỡng:

– Đạm: Lúc đầu cây đầu cần nhu cầu đạm rất lớn, nếu thiếu đạm lá, quả sẽ nhỏ, cây cho ra ít ngó, lá già chuyển sang màu cam hoặc đỏ, là non nhỏ và có màu xanh nhạt. Thừa đạm làm giảm chất lượng của quả, cây dễ bị nhiễm bệnh.

Phân tích mẫu đất và dựa vào tình hình sinh trưởng, triệu chứng của cây để điều chỉnh đạm cho phù hợp.

– Kali: Cây thiếu kali là bị héo, lá già bị khô, quả dễ bị thối.

Dùng Bicarbonate kali phun lên là có thể phòng ngừa bệnh và cung cấp thêm kali cho cây; Cung cấp thường xuyên phân kali cho cây như KNO 3, K 2SO 4.

– Boron: Thiếu Bo là một trong những nguyên nhân dẫn đến trái dâu nhỏ hơn bình thường và dị dạng vì một vài chỗ trên trái bị teo lại và không phát triển. Mùi vị của trái gần như bình thường nhưng không có giá trị về mặt kinh tế.

Vi lượng Bo rất quan trọng trong quá trình thụ phấn. Khi một hay nhiều hoa cái không được thụ phấn thì mô quả ở chỗ đó sẽ không phát triển và làm cho trái bị dị dạng. Boron có chức năng quan trọng đối với bộ rễ, vì vậy thiếu hụt Boron có thể làm cho cây dâu không hấp thu tốt các chất dinh dưỡng.

– Canxi: Khi lá còn non và chưa trải ra, đầu mút của lá đã bị hoại tử và khô, vì vậy khi lá lớn lên đầu mút bị xoắn lại nhưng những phần khác của lá vẫn phát triển bình thường khỏe mạnh. Những cây dâu phát triển quá nhanh thường gây cản trở cho việc hấp thu canxi từ đất, mặt dù lượng canxi trong đất rất dồi dào. Khí hậu khô, lạnh và nhiều mây gây cản trở rất nhiều đến việc hấp thụ canxi của cây.

– Thuốc trừ cỏ: Dùng thuốc trừ cỏ không đúng thuốc, đúng liều cây sẽ bị chết, nên dùng thuốc trừ cỏ có chọn lọc, thuốc tiền nảy mầm hoặc hậu nảy mầm.

e. Bệnh bạch tạng (Physiological)

– Triệu chứng: khi trái dâu chin, trên trái dâu xuất hiện những mảng màu trắng, làm giảm giá trị thẩm mỹ và hương vị dâu. Hơn thế nữa những mảng trắng làm tăng nguy cơ xâm nhập của nấm gây thối trái.

2. Các loại bệnh hại:

a. Bệnh xì mủ lá: ( Xanthomonas fragaria)

– Triệu chứng: Vết bệnh là những đốm nhỏ sũng nước ban đầu xuất hiện dưới bề mặt lá. Lá có màu xanh tái khi đưa ra ánh sáng mặt trời. Sau đó các lá bị bệnh có thể bị khô héo và chết.

Quá trình nhiễm bệnh: Vi khuẩn lan từ cây này sang cây khác, từ lá già sang lá non do sự bắn toé nước khi trời mưa hoặc do tưới tiêu. Vi khuẩn xâm nhập qua cửa khí khổng của lá. Để nhận biết bệnh, vào sáng sớm lật mặt lá lên, ta có thể nhìn thấy chất dịch màu trắng như mủ chảy ra từ vết bệnh. Bệnh gây hại các giai đoạn sinh trưởng của cây.

– Biện pháp phòng trừ: Sử dụng cây giống từ những vườn ươm sạch bệnh.

Sau khi đã ngắt tỉa những lá bị bệnh phải tiến hành thu gom để tiêu huỷ hoặc đốt, chôn xa ruộng dâu để diệt trừ triệt để những mầm bệnh còn sót lại trên đồng ruộng.

Hạn chế sử dụng hệ thống tưới phun mưa, sử dụng lớp phủ rơm cỏ khô để hạn chế sự bắn toé nước khi trời mưa, giữ cho ruộng dâu luôn khô ráo và có phương pháp tưới hợp lý (nếu có điều kiện nên áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt).

Nếu thực hiện một cách nghiêm túc các biện pháp trên ta có thể khống chế bệnh một cách dễ dàng, ngay cả trong trường hợp cây bị nhiễm bệnh nặng.

b. Bệnh đốm đỏ: ( Mycosphaerella fragariae)

– Triệu chứng: Ban đầu trên lá xuất hiện những đốm tròn màu tía, có thể nhìn thấy trên bề mặt lá. Đốm tròn lan rộng từ 3-6mm. Ở trung tâm đốm có màu xám trắng, hoại tử, có quầng màu tím bao quanh đốm bệnh. Ta có thể nhìn thấy những đốm đỏ ở mặt dưới của lá nhưng màu nhạt hơn. Bệnh gây hại các giai đoạn sinh trưởng của cây.

Quá trình nhiễm bệnh: Những bào tử trưởng thành gây hại ở cây bệnh có thể lây qua cây mới do sự bắn toé nước khi tưới phun mưa hoặc khi trời mưa to. Khí hậu ấm và ẩm thuận lợi cho bệnh đốm đỏ phát triển.

– Biện pháp phòng trừ: Tỉa các phần bị bệnh và bị chết của cây, tiêu huỷ chúng bằng cách đốt hoặc chôn ở xa ruộng dâu.

Dùng cỏ khô phủ đất để giảm sự bắn toé nước khi trời mưa nặng hạt. Tránh làm bắn toé nước khi dùng hệ thống tưới phun mưa. Tưới nhỏ giọt là biện pháp tốt để kiểm soát bệnh này.

c. Bệnh phấn trắng: ( Sphaerotheca macularis)

– Triệu chứng: Ban đầu vết bệnh xuất hiện một lớp bột trắng, ta có thể nhìn thấy sau mặt lá, nhưng trên mặt lá thân, hoa, và trái cũng có thể bị nhiễm bệnh. Lá bệnh có khuynh hướng cuốn tròn lên phía trên và để lộ sau mặt lá một lớp bột màu trắng. Những vùng bị nhiễm bệnh thường sẽ héo khô và chết.

– Quá trình nhiễm bệnh: Những vùng bị nhiễm bệnh có thể phân tán một số lượng lớn mầm bệnh và theo gió và lây lan qua những cây khoẻ mạnh.

Nấm tự hình thành không phụ thuộc vào ẩm độ, ngay cả trong điều kiện khô ráo, nấm vẫn có thể xuất hiện. Loại nấm này thường gặp nhiều ở nhà kính và dàn che nilon hơn là canh tác ngoài trời. Nấm phấn trắng lây lan rất nhanh và gây thất thu lớn đến sản lượng dâu và chất lượng trái. Bệnh gây hại các giai đoạn sinh trưởng của cây nhưng ảnh hưởng nhiều ở thời kỳ cây đã ra hoa, kết trái.

– Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng, ngắt tỉa thường xuyên các thân lá bị bệnh đem tiêu huỷ ở xa ruộng. Sử dụng nguồn giống sạch bệnh, luân canh với các cây trồng không phải là ký chủ của bệnh phấn trắng.

Dàn che dâu phải cao, thông gió, lên luống cao tránh úng vào mùa mưa.

Không trồng mật độ dày, tăng cường phân kali cho cây.

d. Bệnh mốc xám: Thối trái do Botrytis cinerea

– Triệu chứng: Nấm Botrytis chủ yếu xuất hiện ở giai đoạn quả chín, trong điều kiện ẩm ướt bệnh có thể gây hại nghiêm trọng. Biểu hiện đầu tiên là những đốm nâu sáng xuất hiện, sau đó lan rộng cả trái và phủ một lớp mốc xám.

Hoa và trái non cũng có thể bị nhiễm bệnh và làm cho trái bị khô. Nhiệt độ tích trữ trái dâu đã thu hoạch càng cao thì mầm bệnh nhanh chóng lây lan.

– Quá trình nhiễm bệnh: Mầm bệnh có thể xuất phát từ lá, trái bị nhiễm bệnh còn xót lại trên ruộng và lây lan bởi gió, ngoài ra mầm bệnh cũng có thể đến từ bên ngoài ruộng nhưng điều đó không quan trọng.

Bệnh mốc xám phát triển rất mạnh trong điều kiện ẩm độ không khí cao và bề mặt luống ẩm ướt trong điều kiện thời tiết mùa mưa.

– Biện pháp phòng trừ. Thu dọn tất cả các tàn dư của cây bệnh đốt hoặc chôn xa đồng ruộng. Sử dụng màn phủ bằng rơm hoặc lưới để ngăn trái không tiếp xúc với đất trồng hoặc sự ẩm ướt.

Chọn đất trồng cao ráo, thoát nước tốt, lên luống cao. Bón cân đối NPK, tăng cường Kali trong vụ mưa. Luân canh và xử lý đất trước khi trồng.

Hạn chế sử dụng hệ thống tưới phun mưa, không tưới vào buổi giữa trưa hoặc xế chiều vì thời gian này duy trì sự ẩm ướt sẽ kéo dài. Giữ cho bề mặt luống dâu luôn được khô ráo. Trái đã thu hoạch nên bảo quản ở nhiệt độ 2-4 0 C để ngăn chặn sự sinh trưởng của nấm bệnh.

Lưu ý: Trong thời gian ẩm độ đất và ẩm độ không khí cao phải rút ngắn thời gian giữa 2 lần phun từ 3-4 ngày xử lý 1 lần mới có khả năng hạn chế được bệnh. Phun kỹ vào các chùm trái, giai đoạn hoa nở rộ tránh phun xịt thuốc với nồng độ cao sẽ làm trái dị dạng. Trong vùng đã bị kháng thuốc thì phải thay đổi và sử dụng luân phiên các loại thuốc trừ nấm khác nhau. Dưới điều kiện mưa nhiều và kéo dài thì nấm bệnh rất khó kiểm soát.

e. Bệnh cao su: Thối trái do Phytophthora cactorum

– Triệu chứng: Cả trái non và trái chín đều bị biến màu. Trái xanh dễ bị cứng và chuyển sang màu nâu. Trái già chuyển sang màu trắng tái, màu đỏ hoặc hơi nâu và hơi mềm. Trái bị bệnh trở nên khô, teo nhỏ lại và dai như cao su.

Triệu chứng đặc biệt của bệnh này là trái bị mất hương, vị có mùi khó chịu. Trái bị bệnh có mùi dầu nhớt xe và có vị đắng.

– Quá trình nhiễm bệnh: Nấm có trong đất và xâm nhập lên trái do sự bắn tóe nước khi trời mưa hoặc tưới nước hoặc do trái tiếp xúc với đất trồng.

Bệnh lây lan và phát triển nhanh vào mùa mưa và ẩm độ không khí cao.

– Biện pháp phòng trừ: Để kiểm soát bệnh này, cần phải kiểm soát lượng nước. Cách ngăn chặn, phòng ngừa rẻ tiền và hiệu quả là dùng màng phủ. Màng phủ cỏ khô và rơm là tốt nhất. Nhưng lớp màn phủ phải đủ dày để trái không bị tiếp xúc với đất trồng và không bị ảnh hưởng bởi sự bắn tóe nước. Biện pháp tốt nhất là phủ một lớp cỏ hoặc rơm khô lên bề mặt đất trồng sau đó phủ một lớp lưới lên trên lớp cỏ. Biện pháp này giúp cho trái dâu được khô ráo, không những ngăn ngừa được bệnh cao su mà còn ngăn ngừa được nhiều bệnh khác.

g. Bệnh đốm đen ( Colletotrichum acutatum)

– Triệu chứng: Khi trái chín, xuất hiện những đốm tròn có màu nâu. Những đốm tròn sạm màu và sau đó biến thành màu đen hoàn toàn. Nếu trái bị nhiễm bệnh trước khi chín thì toàn bộ trái sẽ bị đen và héo.

Trong quá trình vận chuyển, tích trữ, nguồn bệnh vẫn tiếp tục lây lan làm cho trái bị hư hỏng nặng hơn. Đây là vấn đề đáng quan tâm.

– Quá trình nhiễm bệnh: Những ngó dâu đã bị nhiễm bệnh ngay từ lúc trồng thường không thấy xuất hiện triệu chứng bệnh. Trong ruộng dâu, nấm bệnh có thể lây lan do sự bắn tóe nước khi tưới hoặc do trời mưa nặng hạt hoặc do quá trình chăm sóc cắt tỉa và thu hái. Cây có quá nhiều đạm cũng rất dễ nhiễm bệnh.

h. Bệnh thối đen rễ dâu tây

– Triệu chứng gây hại: Thường bắt đầu ngay trong năm đầu tiên cho quả. Các tổn thương sẽ biểu hiện rõ nhất trong khu vực đất thấp hoặc nơi có sự thoát nước kém. Cây bị bệnh tăng trưởng kém, thiếu sức sống, còi cọc. Cây sẽ bị khủng hoảng nước do nhu cầu nước trong quá trình sinh trưởng cao, trong hoặc sau khi cho quả rộ, hay bị hạn hán.

Trên lá: Lúc đầu lá bị đỏ như luộc từ ngoài rìa lá vào sau khô quắt, rũ làm cây héo hết lá.

Rễ bị thâm đen, ở giữa mạch lybe của trung trụ bị thối lan rộng dần.

Thân bị bệnh cắt ngang thân phần gỗ lúc đầu chuyển sang màu nâu vàng, khi cây héo và chết vết thâm lan rộng hết phần lõi và chuyển sang nâu đậm.

Những cây bị bệnh thối rễ thường tạo điều kiện cho các loại nấm bệnh khác phát triển và gây hại cuống lá, lá và quả.

Thường sẽ có một hoặc nhiều chủng loại nấm tấn công gây hại. Kết quả bước đầu phân tích, tác nhân gây hại tại Đà Lạt là loại nấm Pythium spp và Fusarium spp. Những yếu tố môi trường thuận lợi cho thối đen gốc bao gồm đất thoát nước kém, tổn thương do nhiệt độ thấp, sự mất cân bằng dinh dưỡng và ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ, bệnh sẽ trở nên phức tạp và khó kiểm soát.

Phần V. Phòng trừ dịch hại tổng hợp

Áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp IPM

1. Biện pháp canh tác kỹ thuật: Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ, cắt tỉa các lá già vàng úa tiêu hủy, luân canh cây trồng khác họ, chọn giống khỏe, sức đề kháng sâu bệnh tốt, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Bón phân cân đối và hợp lý, tăng cường sử dụng phân hữu cơ sinh học, vi sinh. Chăm sóc theo yêu cầu sinh lý của cây. Kiểm tra đồng ruộng phát hiện và kịp thời có biện pháp quản lý thích hợp đối với sâu, bệnh

Thực hiện ghi chép nhật ký đồng ruộng

2. Biện pháp sinh học: Hạn chế sử dụng các loại thuốc hóa học có độ độc cao để bảo vệ các loài ong ký sinh của ruồi đục lá, các loài thiên địch bắt mồi như nhện, bọ đuôi kìm…Sử dụng các chế phẩm sinh học trừ sâu bệnh

3. Biện pháp vật lý: Sử dụng bẫy màu vàng, bôi các chất bám dính: dùng nhựa thông (Colophan) nấu trộn với nhớt xe theo tỉ lệ 4/6, bẫy Pheromone dẫn dụ côn trùng

Có thể sử dụng lưới ruồi cao từ 1,5-1,8m che chắn xung quanh vườn hạn chế ruồi đục lá, sâu, côn trùng gây hại bay từ vườn khác sang

4. Biện pháp hóa học: Sử dụng thuốc phải cân nhắc kỹ theo nguyên tắc 4 đúng (đúng lúc, đúng cách, đúng liều lượng, đúng thuốc) và nhớ đọc kỹ hướng dẫn sử dụng thuốc trước khi dùng. Phun khi bệnh chớm xuất hiện

Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật cần thiết và theo các yêu cầu sau:

+ Không sử dụng loại thuốc cấm sử dụng cho rau

+ Chọn các thuốc có hàm lượng hoạt chất thấp, ít độc hại với thiên địch, các động vật khác và con người

+ Ưu tiên sử dụng các thuốc sinh học (thuốc vi sinh và thảo mộc)

Phần VI. Thu hoạch, phân loại và xử lý bảo quản sau thu hoạch:

Dâu tây không chín thêm sau khi thu hoạch, do đó, để đạt chất lượng tốt nhất nên thu hoạch dâu tây khi quả đã chín (trái đã chuyển sang màu đỏ đều).

Phân loại và đóng gói dâu tây theo yêu cầu của khách hàng, tốt nhất đóng dâu trong các hộp đặc biệt, tránh để các trái dâu tiếp xúc và cọ xát lẫn nhau.

Trái dâu tây không bảo quản được lâu và chỉ nên bảo quản trong vài ngày, khi thu hoạch xong tốt nhất phải bảo quản và vận chuyển trong điều kiện lạnh.

Trái dâu tây rất dễ bị giập nát khi thu hoạch và vận chuyển phải chú ý thao tác nhẹ nhàng, tránh giập nát.

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Cây Dâu Tây (Phần 1)

1. Đặc điểm thực vật học:

Thân: Thuộc loại cây thân thảo, sống đa niên, thân ngắn với nhiều lá mọc rất gần nhau. Chồi nách được mọc từ nách lá, tuỳ vào điều kiện môi trường và đặc tính ra hoa của từng giống, các chồi nách có thể phát triển thành thân nhánh, thân bò hoặc phát hoa

Lá: Lá có hình dạng, cấu trúc, độ dày và lượng lông tơ thay đổi tùy theo giống. Hầu hết các giống dâu tây đều có lá kép với 3 lá chét, một số giống có lá kép với 4 hoặc 5 lá chét. Mép lá có răng cưa. Cuống lá dài, cuống lá thường có màu trắng khi lá còn non và chuyển sang màu đỏ của đất khi lá già.

Hoa: Phân chia thành nhiều nhánh, mỗi nhánh có một hoa. Hoa có 5 cánh tràng mỏng, màu trắng, hơi tròn. Hoa lưỡng tính, có 25-30 nhị và 50-500 nhụy. Dâu tây là loài giao phấn nhưng thông qua hình thức tự thụ phấn để gia tăng tần suất các gen mong muốn và tạo ra một số loài.

Quả: là một loại quả giả do đế hoa phình to, quả thật nằm ở bên ngoài quả giả. Quả có hình bầu dục, quả non có màu xanh lục, khi quả chín, quả có màu hồng hoặc màu đỏ tuỳ từng giống. Quả Dâu tây có mùi thơm, vị ngọt lẫn vị chua.

Rễ: Hệ thống rễ chùm, rễ phát triển ở độ sâu cách mặt đất khoảng 30cm.

2. Yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh:

Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển từ 18-220C. Ánh sáng cần thiết cho cây dâu tây sinh trưởng và phát triển, cường độ ánh sáng mạnh thì mới sinh trưởng mạnh, thiếu ánh sáng thường ảnh hưởng đến khả năng ra hoa kết quả. Độ ẩm cần thiết cho sự phát triển của cây dâu tây trên 84%, ẩm độ không khí cao và mưa kéo dài thường gây bệnh cho cây. Cây dâu tây thích hợp với loại đất thịt nhẹ, hàm lượng chất hữu cơ cao, đất giữ ẩm nhưng thoát nước tốt. Đất có hàm lượng chất hữu cơ cao sẽ giúp cho cây dâu tây phát triển tốt, đạt năng suất cao và kéo dài thời gian thu hoạch quả.

II/ Kỹ thuật trồng và chăm sóc:

1. Giống: Hiện nay, tại Lâm Đồng dâu tây sử dụng 2 cơ cấu giống chính là giống ngoài trời: Giống Mỹ đá, Mỹ thơm (Pajero), Langbiang… và giống trong nhà mái che: Giống Newzealand và giống Akihime.

Tiêu chuẩn lựa chọn giống xuất vườn:

Giống cây dâu tây hiện nay chủ yếu nhân giống vô tính theo 2 cách:

Cấy mô: Cây con sẽ đạt được tiêu chuẩn tốt, độ đồng điều cao, phát huy ưu điểm của giống, sức sống khỏe, năng suất cao, sạch bệnh.

Tách cây con từ ngó cây mẹ: Phương pháp này dễ làm, chủ động nhưng ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của cây mẹ. Cây con không đạt tiêu chuẩn và sức sống như cây cấy mô. Chỉ nên lấy cây con từ tách ngó cây mẹ dưới 01 năm tuổi thì mới đảm bảo chất lượng giống.

Giống trồng từ ngó: 66% và Giống trồng từ cây mô: 34%

2. Chuẩn bị đất: Chọn đất thịt nhẹ, cao ráo, thoát nước tốt. Cây dâu tây là đối tượng của nhiều loại sâu, bệnh, do đó biện pháp chọn đất, làm đất, xử lý đất phải chú trọng đúng mức để hạn chế nguồn bệnh ban đầu lây lan từ đất.

Vệ sinh đồng ruộng thu dọn tất cả tàn dư cây trồng trước, làm đất xử lý vôi và các loại thuốc sâu, thuốc bệnh.

3. Trồng và chăm sóc:

Luống trồng cao 20-25cm ở vùng đất thấp; 15-20cm ở vùng đất cao.

Trong nhà nylon: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rãnh 1,2m-1,3m; cây x cây: 35-40 cm, mật độ 40.000-45.000 cây/ha.

Ngoài trời: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rảnh 1,2m-1,3m, cây x cây: 40-45cm. mật độ 35.000-40.000 cây/ha. Với khí hậu Đà Lạt nếu trồng mật độ dày sẽ dễ phát triển bệnh cây.

Trồng phải đặc cây thẳng với mặt đất, đào lỗ đủ sâu để lấp hết bầu rễ của cây, tránh làm vỡ bầu cây con.

– Ngắt chùm hoa, cắt tỉa ngó: Để cây sinh trưởng mạnh và ổn định trong giai đoạn đầu nên ngắt bỏ chùm hoa bói đầu tiên để tăng cường sinh trưởng và ức chế phát dục.

Trong giai đoạn thu hoạch, để trái lớn đều nên cân đối giữa khả năng phát triển của khung tán và số lượng hoa trái trên cây nếu nụ, hoa, trái ra nhiều cần tỉa bỏ những nụ, hoa, trái dị dạng và sâu bệnh.

Nếu không tận dụng ngó để nhân giống thì nên cắt bỏ toàn bộ ngó.

Giai đoạn đầu khi thân lá cây chưa phủ luống có thể để ngó với khoảng cách 15 cm (5-6 ngó/cây). Để tăng cường sinh trưởng cây ban đầu, hạn chế ngó đâm rễ phụ trên luống.

– Tỉa thân lá: Đảm bảo mật độ phân tán cây dâu cân đối nên để từ 3-4 thân/gốc. Do đặc điểm của giống, chế độ phân bón, thời tiết, chăm sóc khả năng phân tán, ra lá sẽ khác nhau. Tỉa bớt các lá già, sâu bệnh, lá bị che khuất tầng dưới. Chú ý không nên tỉa quá nhiều sẽ mất khả năng quang hợp của cây. Các bộ phận của cây sau khi cắt tỉa cần phải tiêu huỷ ở xa vườn trồng.

– Che phủ đất: Dùng tấm nhựa để che phủ mặt luống trồng dâu. Phương pháp này có các ưu điểm như sau: Giữ ẩm cho luống trồng, gia tăng nhiệt độ cho luống trồng (phủ nhựa đen) phù hợp cho sinh trưởng cây dâu đồng thời hạn chế một số nấm bệnh, cách ly trái tiếp xúc với đất hạn chế bệnh thối trái. Hạn chế cỏ dại và rửa trôi phân bón.

Hiện nay có 3 cách che phủ luống được áp dụng: Dùng nhựa PE (thích hợp cho trồng dâu trong nhà nylon). Dùng cỏ khô, tro trấu. Dùng cỏ khô kết hợp với lưới nylon trắng.

Tuy nhiên việc che phủ đất tại vùng đất thấp thường phát sinh sên nhớt.

Tưới nước: Sử dụng nguồn nước không bị ô nhiễm, nước giếng khoan, nước suối đầu nguồn, không sử dụng nước thải, nước ao tù, ứ đọng lâu ngày.

Đối với cây dâu nếu ẩm độ đất và ẩm độ không khí cao đều bất lợi đến sinh trưởng, cũng như sâu bệnh phát triển, tối ưu nhất với cây dâu là thiết kế hệ thống tưới ngầm, nhỏ giọt.

– Dàn che: Hiện có 2 kiểu canh tác cây dâu tây là trong nhà che nylon và ngoài trời, sản xuất cây dâu trong dàn che có ưu điểm như:

Hạn chế bệnh cây trong mùa mưa, tuy nhiên nếu thiết kế dàn che không đảm bảo chiều cao, thông gió không tốt thì độ ẩm sẽ tăng và bệnh sẽ phát triển mạnh đồng thời nhiệt độ sẽ gia tăng đột ngột tại một số thời điểm trong ngày ảnh hưởng đến sinh lý của cây.

Hạn chế ngập úng đất, ẩm độ gia tăng và rửa trôi phân bón khi mưa kéo dài hay mưa lớn trong vụ hè thu.

– Phòng ngừa dị dạng trái: Thời kỳ kết trái đầu tiên nếu phát hiện quả dị dạng lập tức hải bỏ và giảm bón lượng đạm.

Giai đoạn hoa nở rộ tránh phun xịt thuốc sâu bệnh với nồng độ cao.

4. Phân bón và cách bón phân:

Phân bón: Lượng phân bón cho 1 ha:

Phân chuồng hoai: 40-50m3; vôi: 1.500kg; hữu cơ vi sinh: 1.000-2.000 kg;

Phân hóa học (lượng nguyên chất): 100kg N-120kg P2O5-120kg K2O; MgSO4: 40kg; Boric: 80kg.

Lưu ý: Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn tương đương.

Ure: 217kg; super lân: 750 kg; KCl: 200kg.

Cách bón:

Ghi chú: Bón vôi 2 đợt/năm: Đợt 1: Bón lót 1000 kg; Đợt 2: 06 tháng sau khi trồng bón bổ sung 500 kg.

Lượng phân định kỳ bón năm thứ nhất là 10 lần, nếu 02 tháng bón 01 lần thì sử dụng lượng gấp đôi. Nếu sử dụng phân đơn thì mỗi đợt bón phân định kỳ có thể bón 20 kg ure, 20 kg kali. Acid Boric và MgSO4 phun xịt định kỳ qua lá.

Chu kỳ kinh doanh của cây dâu thu hoạch trái kéo dài đến 02 năm hoặc hơn. Nếu dâu tây trên 01 năm tuổi chức năng sinh lý của rễ kém ảnh hưởng đến hấp thụ dinh dưỡng, nên bổ sung phân qua lá, định kỳ 10-15 ngày xịt 01 lần.

Bón phân theo nguyên tắc bón ít nhưng bón nhiều lần trong năm. Lượng phân theo khuyến cáo như trên đối với bón định kỳ có thể tăng hay giảm tùy thuộc vào sức sinh trưởng, phát dục, giai đoạn bội thu, chu kỳ ra trái của cây dâu.

Quy Trình Trồng Và Chăm Sóc Cây Dâu Tây

1. Giống

Hiện nay, dâu tây sử dụng 2 cơ cấu giống chính là giống ngoài trời: Giống Mỹ đá, Mỹ thơm (Pajero), Langbiang… và giống trong nhà mái che: Giống Newzealand và giống Akihime,…

2. Tiêu chuẩn lựa chọn giống xuất vườn:

– Giống cây dâu tây hiện nay chủ yếu nhân giống vô tính theo 2 cách:

+ Cấy mô: Cây con sẽ đạt được tiêu chuẩn tốt, độ đồng điều cao, phát huy ưu điểm của giống, sức sống khỏe, năng suất cao, sạch bệnh.

+ Tách cây con từ ngó cây mẹ: Phương pháp này dễ làm, chủ động nhưng ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của cây mẹ. Cây con không đạt tiêu chuẩn và sức sống như cây cấy mô. Chỉ nên lấy cây con từ tách ngó cây mẹ dưới 01 năm tuổi thì mới đảm bảo chất lượng giống.

– Giống trồng từ ngó: 66% và giống trồng từ cây mô: 34%.

3. Chuẩn bị đất:

+ Chọn đất thịt nhẹ, cao ráo, thoát nước tốt. Cây dâu tây là đối tượng của nhiều loại sâu, bệnh, do đó biện pháp chọn đất, làm đất, xử lý đất phải chú trọng đúng mức để hạn chế nguồn bệnh ban đầu lây lan từ đất.

+ Vệ sinh đồng ruộng thu dọn tất cả tàn dư cây trồng trước, làm đất xử lý vôi và các loại thuốc sâu, thuốc bệnh.

4. Trồng và chăm sóc:

– Luống trồng cao 20 – 25cm ở vùng đất thấp, 15 – 20cm ở vùng đất cao.

– Trong nhà nylon: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rãnh 1,2m – 1,3m; cây x cây: 35 – 40 cm, mật độ 40.000 – 45.000 cây/ha.

– Ngoài trời: Trồng hàng 3 kiểu nanh sấu, luống rảnh 1,2m – 1,3m, cây x cây: 40 – 45cm. mật độ 35.000 – 40.000 cây/ha.

-Với khí hậu Đà Lạt nếu trồng mật độ dày sẽ dễ phát triển bệnh cây.

– Trồng phải đặc cây thẳng với mặt đất, đào lỗ đủ sâu để lấp hết bầu rễ của cây, tránh làm vỡ bầu cây con.

– Ngắt chùm hoa, cắt tỉa ngó: Để cây sinh trưởng mạnh và ổn định trong giai đoạn đầu nên ngắt bỏ chùm hoa bói đầu tiên để tăng cường sinh trưởng và ức chế phát dục.

– Trong giai đoạn thu hoạch, để trái lớn đều nên cân đối giữa khả năng phát triển của khung tán và số lượng hoa trái trên cây nếu nụ, hoa, trái ra nhiều cần tỉa bỏ những nụ, hoa, trái dị dạng và sâu bệnh.

– Nếu không tận dụng ngó để nhân giống thì nên cắt bỏ toàn bộ ngó.

– Giai đoạn đầu khi thân lá cây chưa phủ luống có thể để ngó với khoảng cách 15 cm (5-6 ngó/cây). Để tăng cường sinh trưởng cây ban đầu, hạn chế ngó đâm rễ phụ trên luống.

– Tỉa thân lá: Đảm bảo mật độ phân tán cây dâu cân đối nên để từ 3 – 4 thân/gốc. Do đặc điểm của giống, chế độ phân bón, thời tiết, chăm sóc khả năng phân tán, ra lá sẽ khác nhau. Tỉa bớt các lá già, sâu bệnh, lá bị che khuất tầng dưới. Chú ý không nên tỉa quá nhiều sẽ mất khả năng quang hợp của cây. Các bộ phận của cây sau khi cắt tỉa cần phải tiêu huỷ ở xa vườn trồng.

– Che phủ đất: Dùng tấm nhựa để che phủ mặt luống trồng dâu. Phương pháp này có các ưu điểm như sau: Giữ ẩm cho luống trồng, gia tăng nhiệt độ cho luống trồng (phủ nhựa đen) phù hợp cho sinh trưởng cây dâu đồng thời hạn chế một số nấm bệnh, cách ly trái tiếp xúc với đất hạn chế bệnh thối trái. Hạn chế cỏ dại và rửa trôi phân bón.

– Hiện nay có 3 cách che phủ luống được áp dụng: Dùng nhựa PE (thích hợp cho trồng dâu trong nhà nylon). Dùng cỏ khô, tro trấu. Dùng cỏ khô kết hợp với lưới nylon trắng tuy nhiên việc che phủ đất tại vùng đất thấp thường phát sinh sên nhớt.

– Tưới nước: Sử dụng nguồn nước không bị ô nhiễm, nước giếng khoan, nước suối đầu nguồn, không sử dụng nước thải, nước ao tù, ứ đọng lâu ngày.

+ Đối với cây dâu nếu ẩm độ đất và ẩm độ không khí cao đều bất lợi đến sinh trưởng, cũng như sâu bệnh phát triển, tối ưu nhất với cây dâu là thiết kế hệ thống tưới ngầm, nhỏ giọt.

– Dàn che: Hiện có 2 kiểu canh tác cây dâu tây là trong nhà che nylon và ngoài trời, sản xuất cây dâu trong dàn che có ưu điểm như:

+ Hạn chế bệnh cây trong mùa mưa, tuy nhiên nếu thiết kế dàn che không đảm bảo chiều cao, thông gió không tốt thì độ ẩm sẽ tăng và bệnh sẽ phát triển mạnh đồng thời nhiệt độ sẽ gia tăng đột ngột tại một số thời điểm trong ngày ảnh hưởng đến sinh lý của cây.

+ Hạn chế ngập úng đất, ẩm độ gia tăng và rửa trôi phân bón khi mưa kéo dài hay mưa lớn trong vụ hè thu.

– Phòng ngừa dị dạng trái: Thời kỳ kết trái đầu tiên nếu phát hiện quả dị dạng lập tức hải bỏ và giảm bón lượng đạm.

+ Giai đoạn hoa nở rộ tránh phun xịt thuốc sâu bệnh với nồng độ cao.

Nguồn: Sở NN và PTNT Lâm Đồng

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Măng Tây

A. Giới thiệu

Măng tây Asparagus officinalis là một loại thực vật dùng làm rau. Cây thảo có thân mọc ngầm trong đất, thường gọi là thân rễ. Thân rễ dày, mang nhiều rễ dài, đường kính 5-6 mm, màu nâu sáng, xốp. Các thân đứng mọc trong không khí lởm chởm những vết sẹo của những nhánh đã rụng. Các thân khí sinh này mang những vòng cành biến đổi thành lá hình kim. Lá thật tiêu giảm. Hoa rất nhỏ, màu lục, hình chuông, dài độ 6 mm, tập hợp 4-6 cái thành nhóm ở nách lá của các cành dạng lá. Quả hình cầu, dày màu đỏ.

Cây măng tây là một loại cây lâu năm thuộc Họ Măng tây có nguồn gốc châu Âu, Bắc Phi và Tây Á. Ngày nay đọt non cây măng tây được trồng nhiều nơi dùng trong ẩm thực như một loại rau.

Các thành phần dinh dưỡng có trong măng tây gồm: Nước 90-95% glucid 1,70-2,50% lipid 0,10-0,15%, protid 1,60-1,90%, cellulose 0,55-0,70%, các vitamin A, B1, B2, C, khoáng 10% chất khoáng với mangan, sắt, photpho, kali, calcium four, brome, iod, một ít tanin, saponosid; các chồi non chứa asparagin, coniferin, một ít rutosid (có nhiều hơn ở các phần xanh) các vết anthocyamosid. Trong rễ có sarsasapogenin coniferin, acid chelidonic, mannit, asparagin, muối kali.

Đọt măng tây thường dùng để ăn, rất tốt cho người suy niệu, thấp khớp, thống phong, viêm phế quản mạn tính, đái đường, đánh trống ngực.

Rễ măng tây được dùng cho các trường hợp giảm niệu của bệnh nhãn tim, các bệnh về thận, thuỷ thũng, vàng da.

Ở Trung Quốc, Măng tây được dùng trị phổi nóng sinh ho và sát trùng, được dùng trị bệnh ngoài da, ghẻ, nấm và ký sinh trùng.

Hiện nay Trung Quốc vẫn là quốc gia có số diện tích trồng măng tây lớn nhất thế giới với 93.000 ha, họ chủ yếu sản xuất măng xanh, trong khi đó Đức đang đứng thứ 3 với số diện tích nhưng họ chủ yếu sản xuất măng trắng.

Những số liệu cho thấy rằng, Việt Nam vẫn là nước trồng măng tây với diện tích khiêm tốn so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.

B. Quy trình kỹ thuật

Măng tây là cây trồng ngoại, mới du nhập vào nước ta. Là loại cây trồng cho giá trị kinh tế rất cao tuy nhiên kỹ thuật trồng măng tây khó, đòi hỏi người trồng phải có được sự hiểu biết nhất định về đặc tính của cây cũng như kỹ thuật trồng trọt. Là cây đòi hỏi sự đầu tư lớn về vốn, kỹ thuật, công chăm sóc và có thị trường đầu ra cho sản phẩm. Vì vậy trước khi trồng chúng ta cần nghiên cứu kỹ kỹ thuật trồng cũng như nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của thị trường.

I. Điều kiện ngoại cảnh

Măng tây sinh trưởng, phát triển được trong điều kiện nhiệt độ 10 – 40ºC. Tốt nhất là 23-29ºC với ban ngày và 15-21 º C với ban đêm (mùa xuân ngoài bắc sẽ vào dải nhiệt độ này và cũng tùy loại giống sẽ có biên độ khác nhau nhưng đây là thông số chung).

Măng tây có khả năng chịu được rét vì vậy trồng được cả ở vùng đồng bằng và miền núi tuy nhiên dưới 10 º C chúng ngừng sinh trưởng.

II. Biện pháp kỹ thuật

1. Giống

Hiện tại Công ty TNHH Phát triển Nông nghiệp Việt Á đang cung cấp giống măng tây xanh VA.01 (Asparagus). Là giống có xuất xứ Italia. Cây sinh trưởng, phát triển mạnh, có khả năng kháng sâu bệnh tốt. Độ đồng đều của đọt măng cao, măng to, ít xơ, năng suất cao. Có khả năng thích nghi với nhiệt độ từ lạnh đến nóng. Thời gian thu hoạch 6-7 tháng, ổn định sau 1 năm. Thời gian thu hoạch kéo dài từ 8-10 năm. Mật độ trồng 20.000-22.000 cây/ha. Thời gian nảy mầm của hạt 7-15 ngày. Nhiệt độ nảy mầm từ 22-25 º C. Nhiệt độ để cây sinh trưởng, phát triển 15-35ºC. Mầm có thể chế biến thành rau ăn hoặc xuất khẩu.

2. Thời vụ

Miền Bắc

Miền Bắc khoảng thời gian thích hợp nhất cho trồng măng tây là tháng 8-10 âm lịch (giai đoạn này sau mùa mưa, trồng khoảng 5-6 tháng là chúng ta có thể thu bói, thời gian quay vòng vốn sớm) và tháng 2-5 âm lịch (giai đoạn này sẽ quay vòng vốn muộn hơn khi vướng vào mùa mưa và mùa đông). Như vậy, để trồng vào thời điểm này, chúng ta cần ươm hạt từ tháng 4-5-6 âm lịch để 3-4 tháng sau đó là có cây giống để trồng. Khi ươm hạt giống vào giai đoạn này thường tỷ lệ thất thoát sẽ rất cao vì đúng giai đoạn nắng nóng đỉnh điểm và mưa bão liên miên. Chính vì vậy, chúng ta phải xây dựng được hệ thống ươm che chắn kỹ càng.

Miền Nam

Với khí hậu 2 mùa của miền Nam, khoảng thời gian trồng cây là tránh giai đoạn nắng cao điểm và mưa triền miên dài ngày. Thời điểm nắng nóng mưa nhiều của khu vực trung bộ và nam bộ sẽ khác nhau, không phải đồng bộ cùng một thời điểm. Chính vì vậy, muốn trồng măng tây phải dựa vào kinh nghiệm thực tiễn sống tại địa phương để lựa chọn ra những thời điểm thích hợp trồng. Luôn phải gieo hạt giống trước 3 tháng để kịp thời gian làm đất và ươm hạt giống.

3. Kỹ thuật trồng măng tây bằng hạt

3.1. Kỹ thuật ươm hạt giống

Bước 1: Chọn hạt giống có nguồn gốc rõ ràng và phù hợp với khí hậu thổ những của khu vực. Xác định lượng hạt cần gieo cho 1 đơn vị diện tích.

Khoảng 2.000-2.200 hạt trồng được 1 sào Nam bộ = 1.000 m²;

Khoảng 700-800 hạt trồng được 1 sào Bắc bộ = 360 m².

Bước 2: Đem số lượng hạt giống cần ủ ra phơi nắng buổi sáng khoảng 2 tiếng đồng hồ từ 9 đến 11 giờ để hạt giống đạt độ háo nước nhiều nhất và cho tỉ lệ nảy mầm cao nhất.

Bước 3: Cho hạt giống vào 1 cái rây bằng inox mắc nhuyễn ~ 0,5 mm để chà rửa thật sạch hạt giống.

Bước 4: Cho hạt giống đã rửa sạch vào một cái bát hoặc một cái hộp nhựa đường kính ~ 10 cm. Dùng 100% nước lạnh sạch (hoặc nước ấm ~ 30ºC) để ngâm hạt giống từ 1-2 ngày cho đến khi thấy hạt giống ngậm nước trương nở to hơn bình thường. Vỏ hạt đã mềm (đôi khi cũng có hạt đã nảy nanh mầm trắng) thì lấy hạt giống ra. Vớt bỏ những hạt lép hoặc bị nấm mốc nổi trên mặt nước rồi đem hạt giống ra chà rửa nhiều lần cho thật sạch mùi chua, nước nhớt để chống nấm mốc làm thối hỏng hạt giống.

Trong thời gian ngâm hạt giống 1 – 2 ngày, cứ 1/2 ngày một lần phải tiến hành rửa hạt giống và thay nước mới, đây cũng là lúc để hạt giống có thời gian trao đổi dưỡng khí (thở) để kích thích tỉ lệ nảy mầm cao (hạt giống ngâm nước lâu cần phải có thời gian lấy ra khỏi nước để thở/hô hấp, không để mầm hạt bị “chết ngộp”).

Bước 5: Sau 1, hoặc 2 ngày ngâm hạt giống, lấy hạt giống ra chà rửa thật sạch rồi ngâm hạt giống khoảng 30 phút vào dung dịch GA3, hoặc WEHG, hoặc AUXIN, hoặc WEVIRO , hoặc NAA, hoặc ATONIK, … Pha tỉ lệ theo hướng dẫn bao bì với nước để kích thích tỉ lệ nảy mầm, rồi rửa sạch, cho hạt giống vào một cái khăn vải vuông dày ẩm 50% hoặc cũng có thể thay thế bằng 5 – 10 lớp khăn giấy ẩm vuông 30 cm, gói kín hạt giống lại, cho vào cái bát hoặc hộp nhựa sạch và khô ráo, đậy kín nắp hộp cho vào nơi tối (có thể úp/chụp hộp hạt giống bằng một miếng vải dày, màu tối hoặc một cái chậu nhựa để ngăn ánh sáng).

Bước 6: Thời gian ủ hạt giống thường kéo dài từ 3-4 ngày (có thể là 10 ngày) để hạt giống nảy mầm dần dần, nhớ mỗi ngày phải chọn lấy những hạt đã nảy mầm đem ra gieo (có thể gieo trực tiếp ra đất vườn ươm nếu trong nhà màng/kính hoặc gieo vào túi bầu đen khoảng 60 – 90 ngày để lấy cây giống con), những hạt còn lại tiếp tục chà rửa thật sạch, đồng thời giặt sạch 2 cái khăn ủ ẩm bằng nước sôi, để nguội rồi vắt ráo 50% nước để gói, ủ hạt giống cho ngày kế tiếp.

3.2. Ươm trong bầu măng tây:

Chuẩn bị đất trước khi ươm 3 ngày gồm: 3 phần đất + 1 phần trấu hun và phân vi sinh hoặc phân chuồng ủ hoại mục + 5 – 6 kg super lân cho 1 m³ giá thể ươm và thêm chế phẩm sinh học trichoderma. Tất cả được đảo đều và tưới ẩm 65 – 70%. Chuẩn bị túi nilon màu đen chuyên cho bầu ươm rộng 9 – 11 cm và cao 12 – 15 cm.

Tiến hành đóng bầu ươm phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: Cho giá thể vào bầu và lắc đều để đảm bảo độ nén của giá thể, bầu ươm không bị nếp nhăn. Giá thể trong bầu ươm cách mép túi bầu ươm 1cm. Xếp bầu ươm vào trong nhà lưới theo hàng để thuận tiện cho việc ươm và chăm sóc. Sau đó tiến hành gieo hạt trong bầu ươm.

Khi các hạt nứt nanh ta dùng chiếc đũa tạo thành 1 lỗ sâu khoảng 0.5~1 cm ở giữa bầu ươm rồi tiến hành bỏ hạt vào lỗ và lấp đất (có thể dùng trực tiếp ngón tay chỏ đục lỗ để ươm, chiều sâu nửa đốt ngón tay).

Không nên trồng hạt sâu quá sẽ làm hạt bị thối. Cứ tiếp tục tiến hành như vậy cho đến khi trồng hết hạt vào bầu ươm, cuối cùng tiến hành lấp đất và tưới ẩm. Nên tưới dạng phun mưa để đất không bị nén chặt.

Sau khi ươm bằng bầu hoặc trực tiếp trong vườn ươm ta tiến hành chăm sóc như sau:

Tiến hành che chắn vườn ươm tránh thời tiết khắc nhiệt, côn trùng, vật nuôi,…

Đối với khu vực ngoài Bắc 4 mùa mà ươm vào mùa mưa hoặc mùa đông cần phải che chắn kỹ càng cho cây giống giảm tỉ lệ thất thoát, thời gian này mưa nhiều hoặc giá lạnh sẽ khiến cho cây chết nhiều hoặc chậm phát triển không kịp thời vụ. Khi ươm 3 ngày cây măng bắt đầu mọc lên khỏi mặt đất ta luôn giữ ẩm cho đất bằng cách tưới vào buổi sáng sớm và chiều tối.

Khi cây mọc được 15 ngày ta tiến hành nhặt cỏ, tiến hành bón thúc ure 1% để kích thích cây phát triển. Cứ sau 15 ngày tiến hành nhặt cỏ và bón thúc cho cây 1 lần.

Sau khi cây mọc 30~35 ngày ta bón phân vi sinh, phun thuốc bón lá cho cây cứng cáp, phun phòng 1 số bệnh nấm, phun tiếp đợt diệt trứng, côn trùng, sâu bọ trước khi đưa ra đất trồng. Đến thời kỳ này cây phát triển có 3~4 nhánh trong bầu ươm ta có thể đem cây trồng ra ngoài đất.

4. Các bước chuẩn bị khi đưa cây từ vườn ươm ra trồng ngoài đất

4.1. Lựa chọn đất phù hợp

Đất thịt pha cát và có độ thoát nước tốt là đất đẹp nhất để trồng măng tây. Ngoài ra có thể chọn đất thịt nhẹ, đất thịt pha, đất phù sa, đất đỏ bazan, đất đồi tơi xốp… Độ pH ban đầu từ 6.5-7.0. Nên chọn những mảnh đất có độ thoát nước tốt. Lượng phân bón trước khi sử dụng cần nắm bắt rõ tỉ lệ khoáng có trong đất là bao nhiêu để bổ sung thêm. Đối với măng tây lượng lân và kali luôn cao hơn đạm, tỉ lệ 1-1.5-2.5 (N-P-K) trong đất.

Đất trồng cây măng tây cần cải tạo bằng phẳng, có độ dốc nhẹ < 5 – 10% để dễ dàng tưới thấm qua rãnh và thoát nước tốt. Cần phải trồng cây chắn gió và đào mương thoát nước bao quanh đất trồng để chống giông gió, mưa to hay triều cường. Khi cần phải có máy bơm công suất lớn tháo nước, không để ngập úng chân đất quá 8 giờ.

4.2 Chuẩn bị đất (tiến hành đồng thời trong quá trình ươm hạt):

Do bộ rễ cây Măng tây trải rộng 50 – 70 cm và ăn sâu 30 – 50 cm tràn đầy trong chân đất sau 1-2-3 năm trồng không thể dùng cuốc xẻng can thiệp làm tơi xốp đất được nữa, và do nước ta có 6 tháng mưa, đôi khi kéo dài nhiều ngày khiến đất trồng dễ bị ngậm nước và ngập úng làm mất dưỡng khí, người trồng phải cải tạo đất, thiết lập tầng canh tác tơi xốp như một lớp giá thể dày #20-30 cm, lên liếp đất trồng cao khoảng 20- 30 cm, đáy liếp (cũng là đáy của 80 % bộ rễ hút dinh dưỡng của cây măng) phải cao hơn mực nước ngầm khoảng 30 – 50 cm; rãnh thoát nước sâu 20 – 30 cm tuỳ theo độ ăn sâu của rễ; quanh rẫy phải đào mương thoát nước rộng 1 – 2 mét, sâu 1 – 2 mét đề phòng mưa to, triều cường gây ngập úng bất ngờ, có kết hợp trồng cây để chắn giông gió lớn.

Chuẩn bị làm luống/liếp đất trồng cây măng tây như sau:

Làm cỏ và xử lý thuốc diệt mầm cỏ và cỏ dại: Sau khi dọn cỏ bằng các phương pháp thủ công, cày đất. S ử dụng thuốc bảo vệ thực vật như: Roundup 480SC, Vibphosate 480 DD, Niphosate 480SC, Dream 480SC, Bravo 480SC… Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại thuốc diệt cỏ. Nhưng chúng ta luôn sử dụng những hoạt chất trong danh sách lưu hành của Bộ Nông Nghiệp và dùng theo theo tắc 4 đúng. Sau khi dùng thuốc diệt cỏ, chúng ta tiến hành phơi đất khoảng 15-20 ngày, tiến hành xử lý tuyến trùng, trứng sâu, nâng pH trong đất.

Xử lý tuyến trùng, nấm bệnh, côn trùng, vi sinh vật có hại: Sau khi xử lý cỏ dại, trong các phương pháp các chuyên gia đề xuất, bao gồm sinh học và hóa học. Phương pháp xử lý tuyến trùng nấm bệnh bằng vôi là tiết kiệm và hiệu quả nhất. Tùy theo tình trạng của bệnh và độ pH của đất để xử lý. Tiến hành rắc vôi lên bề mặt đất rồi cày ải 20-30 cm, sau đó tưới nước từ từ để vôi ngấm dần, để trong khoảng 7-10 ngày sau rồi tưới nước lần 2. Nhược điểm phương pháp này là toàn bộ sinh vật có lợi có hại đều bị diệt trong quá trình hoạt hóa của vôi.

Ngoài ra để xua đuổi, phòng trừ tuyến trùng gây hại, có thể trồng trước một vụ cây hoa cúc vạn thọ (ít nhất trước 2 tháng). Sau đó tiến hành nhổ bỏ và làm đất như bình thường.

Nâng cao pH của đất

Trong các hoạt chất để nâng pH thì vôi vẫn là hiệu quả và tiết kiệm nhất, kết hợp để xử lý tuyến trùng, nếu chưa có loại sinh học và vi sinh nào được sự kiểm chứng của các hiệp hội khoa học thì chúng ta không nên mạo hiểm dùng để tránh sự lãng phí không cần thiết. Sau khi xử lý bằng vôi, chúng ta hoàn toàn có thể bổ sung các chất hữu cơ, vi sinh hoặc trùn quế để tạo sự cân bằng cho đất.

Với đất sét, nhiều chất hữu cơ:

pH từ 3,5-4,5 cần bón 2 tấn vôi/ha

pH từ 4,6-5,5 bón 1 tấn vôi/ha;

pH từ 5,6-6,5 bón 0,5 tấn vôi/ha,

Với đất cát, ít chất hữu cơ:

pH từ 3,5 đến 4,5 bón < 1 tấn vôi/ha;

pH từ 4,6-5,5, bón < 0,5 tấn vôi/ha;

pH từ 5,6-6,5, bón < 250 kg vôi/ha;

Những lưu ý trước khi cải tạo đất:

Không trồng trên diện tích măng tây đã trồng trước đó.

Ngăn chặn được lượng lớn nước mưa hay môi trường bên ngoài bằng nhà màng nhà lưới.

Cây măng bệnh hay đã già tiến hành nhổ bỏ cách li hoặc đốt.

Hệ thống tưới nước

Có thể đầu tư 2 hệ thống là tưới rãnh, nhỏ nhọt, phun sương pép phun cao 10 – 15 cm, phương pháp phun sương cao 1.5 m-2 m không còn phù hợp vì có nhiều điểm hạn chế.

Thông thường khi sử dụng hệ thống nhỏ giọt nên dùng hệ thống 2 đến 3 dây trên 1 luống. Như vậy, chúng ta có thể tiết kiệm thời gian tưới nước và tránh tỷ lệ độ ẩm không đều trên 1 vị trí sẽ làm nấm bệnh phát triển mạnh.

4.3. Xử lý đất trước khi trồng

Bón lót thêm 20-30 tấn phân xanh/ha (vỏ/bã thực vật các loại cây họ đậu, lục bình, trấu mục, rơm rạ, mùn cưa, 20% tro trấu,…), 20-30 tấn phân chuồng ủ hoai/ha (có xử lý Tricoderma ủ nhân sinh khối), 1-2 tấn phân trùn quế/ha, phân vô cơ tổng hợp (dựa vào kết quả xét nghiệm đất để cân bằng tỉ lệ NPK trong đất thông thường 1 ha khoảng 400 kg NPK tỉ lệ 1-1-2) và phân vi sinh hữu ích thành 1 lớp phân xanh + phân hữu cơ dày 15-20 cm; rồi dùng cuốc xẻng, máy cày, máy cuốc đảo trộn đều lớp đất mặt dày 10-15 cm thành một lớp đất cát pha tơi xốp giàu dinh dưỡng hữu cơ dày 30 cm.

Chọn hướng đông để cây trồng lấy được nắng sáng + nắng chiều để phòng ngừa dịch bệnh, xẻ rãnh thoát nước rộng 30- 40 cm, sâu 20 cm, luống trồng rộng tùy theo hàng đôi hay đơn. Đảm bảo đất hoàn toàn tơi xốp tạo thành thế đất 30 cm nổi 30 cm chìm giàu dinh dưỡng sẵn sàng trồng cây măng tây mà không sợ bộ rễ bị nhiễm phèn hay đất bị ngậm nước và ngập úng nước.

Nấm tricoderma là 1 chủng vi sinh, được các nhà sản xuất ức chế ngủ đông bằng các phương pháp khoa học. Khi đưa ra ngoài môi trường, cần đánh thức chủng tricoderma để hoạt hóa chống chọi lại môi trường nấm bệnh. Phương pháp ủ nhân sinh khối này có thể sử dụng để ủ phân hữu cơ và sử dụng để tưới thẳng trực tiếp vào đất để tránh tuyến trùng, nấm bệnh…

Ủ phân chuồng hữu cơ

Chúng ta chuẩn bị 2 kg đường đỏ/đường hoa mai/rỉ mật đường và 1 kg tricoderma dạng bột hoặc 1 lít tricoderma dạng lỏng hòa trộn với 40-50 lít nước đổ vào 1 khối phân hữu cơ. Sau đó, tiến hành đậy kín yếm khí ủ trong 10 ngày, tiến hành kiểm tra xem các hoạt chất trico đã hoạt hóa nổi phấn trắng chưa? Sau khi kiểm tra, chúng ta tiến hành ủ yếm khí tiếp đến khi nào phân đã hoai mục thì tiến hành sử dụng.

Ủ tricoderma để tưới phòng bệnh cho cây

Với công thức như trên nhưng sẽ pha với thùng phi có sức chứa lớn với tỉ lệ pha 100 lít nước sạch. Sau đó quấy đều và dùng vải màn để bịt tránh các côn trùng, ruồi bọ đẻ trứng, để ủ trong 4-5 ngày, chúng ta tiến hành pha thêm 800 lít nước rồi tưới cho cây.

Sau khi đã cải tạo xong tầng đất canh tác như lớp giá thể dày 30 – 50 cm nêu trên ta làm như sau:

Cần tiến hành tạo mặt phẳng đất trồng với độ dốc thấp hơn 5- 10%, rồi tùy theo mật độ trồng cây đã định trước. Dùng sẵn que/thước dài 45-50 cm theo đúng mật độ để đào hố sẵn sàng trồng cây.

4.4. Giai đoạn đưa cây giống xuống đất

Tiến hành đưa bầu ra trồng tránh làm vỡ bầu, nắm nhẹ bầu đất, dùng tay nhẹ nhàng xé giấy nilon dọc bầu ươm và dùng bàn tay đỡ dưới đáy bầu ươm rồi nhẹ nhàng loại bỏ túi nilon. Chú ý: Tại đáy bầu ươm rất nhiều rễ chúng ta phải thật nhẹ nhàng hạn chế làm đứt rễ của măng

Đưa cây xuống hố sao cho mặt bầu ươm bằng mặt đất nền rồi tiến hành cho đất vào hố giữ cây trồng ngay thẳng và cho thêm đất vào gốc cây 3 – 5 cm để tránh tưới nước bị đọng (sau 3 tháng trồng phát triển tự nhiên chúng ta tiến hành lên luống cao đợt 2). Nếu trồng cạn/nông, cây sẽ mau lớn và mau cho măng, nhưng măng sẽ có nhiều xơ ở 10 cm phần gốc. Nếu trồng sâu khoảng 20 cm, măng to hơn. Trồng cạn hay sâu sẽ ảnh hưởng rất lớn việc chăm sóc cây (tưới nước, bón phân, tưới thuốc). Trồng sâu sau này cây sẽ cho măng to hơn và ít hoặc không có xơ ở 10 cm phần gốc, đồng thời cây cũng sẽ có tuổi thọ cao hơn. Sau đó ta có thể dùng rơm, mùn cưa hoặc trấu đã qua xử lý phủ xung quanh gốc cây rồi tiến hành tưới đẫm để cho chắc gốc cây.

Chuẩn bị đưa ra trồng ta tiến hành tưới đẫm vườn ươm trước 2 ngày rồi dùng thuổng đào từng gốc mang ra trồng.

4.5. Những vấn đề lưu ý khi đầu tư trồng măng tây

Trồng măng tây chưa bao giờ hết khó, đặc biệt hơn là tại miền Bắc Việt Nam với vùng khí hậu 4 mùa khắc nghiệt. Việc ngăn ngừa lượng nước mưa và duy trì độ ẩm cho cây là điều cực kỳ quan trọng.

Trồng măng tây trong nhà màng

Đối với khu vực 2 mùa như trong miền Trung đến miền Nam, tại những khu vực nhiệt độ mùa hè không quá 35 độ C thì đó là nơi quá lý tưởng để đầu tư trồng nhà màng. Khi giảm được tối đa lượng nước mưa và lạnh của mùa đông thì măng tây sẽ phát triển rất tốt. Tại miền Bắc, mùa hè khắc nghiệt hơn khi nhiệt độ lên tới 39-40 độ C, nếu trồng bằng nhà màng cần đầu tư thêm hệ thống thông gió khác. Vì tùy từng loại giống sẽ có biên độ nhiệt sinh trưởng khác nhau, nhiệt độ sinh trưởng tốt nhất của măng tây là từ 23-29 độ C vào ban ngày. Nếu lên quá 35 độ C, hầu như măng rất chậm phát triển. Sản lượng trồng trong nhà màng sẽ cao hơn rất nhiều so với ngoài trời.

Ảnh hưởng của độ ẩm đến cây măng tây

Khi độ ẩm được duy trì đều đặn thì sản lượng sẽ rất cao và măng tây đạt tiêu chuẩn bán ra thị trường. Khi độ ẩm không duy trì và khô thì năng suất vừa thấp và tỉ lệ măng hỏng lại cao.

Kết luận: chúng ta nên đầu tư hệ thống nhà màng để duy trì độ ẩm, khi thời tiết nhiệt độ cao tiến hành nghỉ dưỡng toàn bộ trong thời gian nắng nóng, không thu hoạch.

5. Chăm sóc măng tây

Điều đầu tiên chăm sóc măng phải đúng quy trình và phải có cách làm khoa học. Chúng ta cần chuẩn bị 1 máy đo pH đất và độ ẩm đất vì thường xuyên phải kiểm tra độ pH của đất trước khi trồng và trong quá trình trồng ít nhất 1 tháng 1 lần. Vì theo thói quen của người dân thường sử dụng phân bón hóa học nhiều hơn phân bón hữu cơ. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, chúng ta cần liên kết chặt chẽ các quy trình với nhau và tuân thủ nghiêm ngặt quy trình, đặc biệt là lượng NPK (để biết được hàm lượng chính xác bao nhiêu cần đo pH đất). Hàm lượng NPK sử dụng trong đất đối với măng tây là 600 kg/ha/năm đầu với tỉ lệ N-P-K : 150-200-250. Từ những năm thứ 2 trở đi, chúng ta sẽ tăng dần.

Với lượng NPK này chúng ta sẽ sử dụng theo từng thời kỳ phát triển và từng mùa vụ trong năm. Nếu lúc mới trồng, chúng ta sẽ sử dụng vừa phải và kết hợp với phân chuồng. Nếu vào thời điểm mưa nhiều, nắng gắt hay giá lạnh thì tiến hành ngưng NPK thay vào đó là duy trì độ ẩm tốt nhất và các chế phẩm vi sinh/sinh học để giữ môi trường đất luôn ổn định.

Tác dụng của việc kiểm soát được độ pH của đất và nước:

Như chúng ta biết với pH 6.5-7.0 là khoảng tốt nhất cho cây măng tây phát triển cũng như các loài vi sinh vật có lợi. Vì vậy trước khi trồng và trong quá trình trồng chúng ta thường xuyên đo lại pH của đất và xử lý nước thông qua bể lọc và khu dự trữ nước (sử dụng các dung dịch có độ bazơ để hòa tan với nước) để đạt độ pH tốt nhất cho cây.

Việc bón thêm phân vi lượng cho cây là vô cùng quan trọng, thiếu vi lượng sẽ khiến cây phát triển còi cọc, bạc lá, vàng lá. Nhưng thừa vi lượng thì hiện tượng cũng tương tự, vì vậy khi chúng ta triển khai trồng nếu có kết quả xét nghiệm của đất về trung vi lượng để có thể biết được lượng chúng ta cần bao nhiêu.

Sử dụng các loại phân xanh hoai mục để phủ luống, tránh cỏ dại và giữ ẩm cho đất vào mùa khô.

Đặc biệt chúng ta cần phải quan sát thời tiết, các gốc cây, thân cây có các triệu chứng nấm bệnh hay sâu hại tấn công. Để chúng ta sẽ có phương pháp xử lý trong giai đoạn chăm sóc. Các chế phẩm sinh học phun phòng nấm và côn trùng, chúng ta sẽ nói chi tiết trong phần 6.

Giai đoạn 3:

Sau khi trồng 45 ngày (1,5 tháng): Tiến hành cẳt tỉa bỏ toàn bộ đời cây thứ 1 có đường kính thân từ 1-2 mm trên vườn trồng để thay thế bằng đời cây thứ 2 có đường kính thân từ 3-4 mm rồi xới xáo đất mặt, làm sạch cỏ non không để cỏ già rơi hạt tái sinh cỏ mới. Làm vệ sinh vườn trồng, phun thuốc phòng ngừa tuyến trùng, nấm bệnh, côn trùng hại cây (nếu chúng ta phát hiện trong quá trình cắt tỉa cây đời thứ 1). Bón 80 kg NPK 1-1-2 + Tưới tricoderma ủ nhân sinh khối + vi lượng.

Vun đất cao 3 – 5 cm đậy gốc cây măng, giữ mặt liếp đất trồng cao 20 – 30 cm so với mặt đất tự nhiên. Dưỡng bộ rễ khoẻ mạnh và bộ lá sum suê, giữ cây đứng thẳng quang hợp với nắng tạo ra năng lượng tổng hợp nuôi dưỡng cây.

Giai đoạn 4:

Sau khi trồng 60 ngày (2 tháng): Cây phát triển nhiều thân mới, ở mỗi gốc tiến hành tỉa bỏ những cây bị sâu bệnh, cây yếu cổ rễ đổ nghiêng ngả, cây vàng già đời trước và cây nhỏ. Xới xáo đất mặt, làm sạch cỏ non. Bón phân chuồng hữu cơ ủ hoai mục + tưới tricoderma ủ nhân sinh khối + vi lượng. Vun đất cao 3-5 cm đậy gốc, giữ mặt liếp cao 20-30 cm so với mặt đất tự nhiên, vệ sinh vườn trồng, phun thuốc ngừa tuyến trùng, nấm bệnh, sâu bọ hại cây. Dưỡng bộ rễ khoẻ mạnh và bộ lá sum suê, giữ cây đứng thẳng quang hợp với nắng tạo ra năng lượng tổng hợp nuôi dưỡng cây.

Giai đoạn 5:

Sau khi trồng 75 ngày (2,5 tháng): Cây phát triển nhiều thân mới. Tiến hành tỉa bỏ những cây bị sâu bệnh, cây yếu cổ rễ đổ nghiêng ngả, cây già đời trước và cây nhỏ. Xới xáo đất mặt, làm sạch cỏ non, tuyệt đối không để cỏ già tái sinh cỏ mới. Bón thúc 100 kg NPK 1-1-2 + tưới tricoderma + vi lượng. Vun đất cao 3-5 cm đậy gốc, giữ mặt liếp cao 20-30 cm so với mặt đất tự nhiên, vệ sinh vườn trồng. Dưỡng bộ rễ khỏe mạnh và bọ lá sum suê, giữ cây đứng thẳng quang hợp với nắng tạo ra năng lượng nuôi dưỡng cây.

Giai đoạn 6:

Sau khi trồng 90 ngày (3 tháng): Tiến hành cắt tỉa bỏ toàn bộ đời cây thứ 2 có đường kính thân 3-4mm trên vườn trồng để thay thế bằng đời cây thứ 3 có đường kính thân 5-6 mm rồi xới xáo đất mặt, làm sạch cỏ non không để cỏ già rơi hạt tái sinh cỏ mới. Làm vệ sinh vườn trồng, phun thuốc phòng ngừa tuyến trùng, nấm bệnh, sâu bọ côn trùng hại cây. Bón thúc 10-15 tấn Trùn quế + Tưới tricoderma + vi lượng + nâng cao pH đất. Vun đất cao 3-5 cm đậy gốc, giữ liếp đất trồng cao 20-30 cm so với mặt đất tự nhiên. Dưỡng bộ rễ khoẻ mạnh và bộ lá sum suê, giữ cây đứng thẳng quang hợp với nắng tạo ra năng lượng tổng hợp nuôi dưỡng cây.

Để chống gió xô đổ ngả cây mới trồng, chen giữa hàng cây măng đã trồng, tiến hành cắm các cọc chăng đều dây 10 cm vuông sâu 50 cm, cao 100 – 120 cm (để không bị hư, mục) cách nhau 4 mét, dùng dây điện thoại cũ hoặc cước nilon 2 – 3 mm (chịu được mưa nắng) giăng 1 hàng đôi cao hơn mặt liếp 20 – 30 cm, kẹp lỏng cây măng vào giữa đôi dây để giữ cây đứng thẳng, rồi sau đó tuỳ theo tuổi lớn của cây măng mà nâng đôi dây cao dần lên 50 – 70 cm (hoặc giăng thêm 1 hàng dây đôi khác).

Giai đoạn 7:

Sau khi trồng 105 ngày (3,5 tháng): Tiến hành tỉa bỏ những cây bị sâu bệnh, cây yếu, cổ rễ đổ nghiêng ngả, cây già đời trước và cây nhỏ. Xới xáo đất mặt, làm sạch cỏ non không để cỏ già rơi hạt tái sinh. Bón thúc 120 kg NPK 1-1-2 + tưới trico + vi lượng. Vun đất cao 3-5 cm đậy gốc, giữ mặt liếp cao 20-30 cm so với mặt đất tự nhiên, vệ sinh vườn trồng, phun thuốc phòng ngừa tuyến trùng, nấm bệnh, sâu bọ hại cây. Dưỡng bộ rễ khoẻ mạnh và bộ lá sum suê, giữ cây đứng thẳng quang hợp với nắng tạo năng lượng nuôi dưỡng cây.

Giai đoạn này chúng ta sẽ luôn áp dụng phương pháp tỉa cây và số cây mẹ ổn định để nuôi bộ rễ:

Số lượng cây mẹ từ 8-11 cây là cho ra sản lượng tốt. Ngoài ra chúng ta phải tuân thủ cắt tỉa cây mẹ. Chúng ta tỉa cây làm sao cho cây mẹ còn lại để đối xứng nhau, cây mẹ có kích thước trung bình, không quá nhỏ và cũng không quá to. Không nhổ hoặc không dùng kéo cắt sát gốc mà chcắt cao 30-40 cm, cho đến khi các gốc cắt già yếu sẽ dùng tay nhổ nhẹ nhàng để tránh hỏng cổ rễ.

Giai đoạn 8

Sau khi trồng 120 ngày (4 tháng): Cây phát triển nhiều thân mới, dưỡng cây mẹ. Tiến hành tỉa bỏ những cây bị sâu bệnh, cây yếu cổ rễ đổ nghiêng, cây già đời trước và cây nhỏ. Xới xáo đất mặt, làm sạch cỏ non không để cỏ già tái sinh cỏ mới. Bón phân chuồng hữu cơ ủ hoai mục + tưới tricoderma + vi lượng. Vun đất cao từ 3-5cm đậy gốc cây măng, giữ mặt liếp đất trồng cao từ 30-35 cm. Vệ sinh vườn trồng, phun thuốc ngừa nấm bệnh, sâu hại cây. (Lưu ý khi phun thuốc bảo vệ thực vật phải cách 7 – 10 ngày trước và sau khi sử dụng phân hữu cơ vi sinh và hữu cơ cao cấp.) Giữ cây đứng thẳng quang hợp với nắng tạo năng lượng hữu cơ tổng hợp nuôi dưỡng cây.

Khoảng 5-10 ngày sau khi cắt hạ ngọn, cây bắt đầu trổ măng tơ. Tiến hành thu hái cho bằng hết lứa măng tơ này bất kể đạt hay không đạt chất lượng để dồn dinh dưỡng cho cây mẹ và để gốc măng có chỗ trống cho ra đời lứa măng kế tiếp nhiều hơn và khoẻ mạnh hơn. Thu hoạch Măng tơ được 12-15 ngày thì bón thúc 160 kg NPK 1-1-2 + tưới tricoderma + vi lượng. Thu hoạch tiếp khoảng 12-15 ngày nữa thì phải ngưng thu hoạch (Không nên thu hoạch lứa măng tơ quá 1 tháng), tránh không để cây mất sức, làm ảnh hưởng năng suất, chất lượng của các đời cây/lứa măng sau.

Trong giai đoạn thu hoạch, các chuyên gia cũng khuyên rằng không nên bón phân vô cơ nhiều trong giai đoạn này. Chúng ta nên giảm lượng vô cơ xuống để cây măng phát triển bình thường, không bị ức chế phát triển. Vì một trong những nguyên nhân khiến măng tây bị nhiễm bệnh là do chúng ta tiến hành thu hoạch quá nhiều, khá sớm.

Khi cây trưởng thành và đã bắt đầu cho măng thu hoạch, chỉ nên dùng rơm, trấu mục, bã vụn xơ dừa, bã vụn vỏ cà phê, lục bình, tro trấu, các loại phân xanh, hoặc trồng cây họ đậu, cỏ lạc dại để phủ gốc ngăn cỏ dại; tuyệt đối không nên phủ bạt nilon để khử cỏ dại nữa vì làm như vậy vô tình sẽ tạo ra nơi ẩn nấp cho sâu bọ, côn trùng; cỏ sẽ không mọc được nhưng đồng thời cũng phong toả luôn cả sự hô hấp của bộ rễ cây măng tây, cản trở sự phát triển của các chồi măng, kìm hãm sự phát triển bình thường của bộ rễ, cây Măng và cả các lứa Măng về sau này mà trước mắt ta chưa thể thấy ngay hậu quả nặng nề của nó.

Giai đoạn 13:

Chúng ta tiến hành quan sát toàn bộ quá trình phát triển của măng tây, khi thấy các hiện tượng sâu bệnh chúng ta phải có phương án xử lý và cách li kịp thời. Trong các giai đoạn trên, không phải đúng ngày theo lộ trình là chúng ta bón phân, đến ngày bón phân mà gặp mưa bão cần ngưng bón phân vào những ngày sau đó để tránh trôi. Thông thường giai đoạn thu hoạch của măng tây kéo dài 2-3 tháng nhưng khi với lứa măng tây đầu tiên có thể ngắn hơn, nhiều khi phụ thuộc vào thời tiết hay giống. Chúng ta cần quan sát quá trình thu hoạch, khi thấy kích thước măng loại 1 giảm dần, măng cứng thì dừng thu hoạch để dưỡng cây mẹ.

Trong phương pháp này, đã giảm đi 50% lượng phân vô cơ so với phương pháp truyền thống. Nếu sản lượng măng tây giảm, không bằng các đơn vị khác hoặc không theo lý thuyết thì mọi người không nên nản. Điều quan trọng nhất là chúng ta giữ được bộ rễ khỏe mạnh để năm thứ 2 thu hoạch. Chúng ta có thu cũng chỉ là theo lộ trình tự nhiên của cây, quan sát lúc nào nên dừng cắt măng để tránh măng nhiễm bệnh.

Ngoài ra, phải có những lộ trình phòng bệnh bằng tricoderma hay các hoạt chất được Bộ Nông Nghiệp cho phép. Đối với măng tây, nếu trồng ngoài trời mà chỉ sử dụng phương pháp sinh học sẽ không hiệu quả. Điều quan trọng nhất là chúng ta biết dùng vào thời điểm nào và loại thuốc nào. Khi đến ngưỡng cần trừ sâu bệnh nên sử dụng thuốc BVTV mới có hiệu quả nhất.

6. Cách nâng pH đất và phòng trừ sâu bệnh hại

Sử dụng vôi: Vôi là trong những biện pháp vừa tiết kiệm và hiệu quả, nhưng bản thân của vôi có tính khử khá mạnh nên chỉ sử dụng trong quá trình làm đất.

Dùng Lân nung chảy: Việc sử dụng lân nung chảy sẽ giúp cho cân bằng pH trong đất bằng phương pháp hòa tan tưới thẩm thấu sâu trong đất. Trong lân nung chảy có chứa chủ yếu là quặng donomite, một trong những quặng có tính kiềm khá cao khoảng 8.0-8.5 pH. Về lượng sử dụng cần đọc kỹ thông tin trên bao bì.

Dùng K2C03 (kali cacbonat): Kali Cacbonat là một trong những phương án có thể hòa tan với hệ thống nhỏ giọt hay phun sương (trong bể dự trữ) để tưới cho cây.

Bón vi lượng thường xuyên: Việc giảm nồng độ pH cũng có rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta sử dụng lượng NPK quá nhiều khiến cho mất cân bằng nguyên tố Ca, Mg, Mn,… đất sẽ bị ngộ độc và pH sẽ giảm. Vì vậy, chúng ta cần bón các vi lượng chứa các hoạt chất Ca, Mg, bo,… để bổ sung cho đất và cây. Thiếu vi lượng cũng khiến cho cây bị vàng lá, bạc lá,…

Các loại nấm bệnh trên măng tây

Tại Việt Nam thường bị nhiễm 4 loại nấm chủ yếu là:

Thối rễ: Fusarium oxysporum

Nấm trắng: Phomopsis asparagi

Đốm tím: Stem phutium

Rỉ sắt: Asparagus rust:

Một trong những phương pháp ngăn ngừa phòng bệnh là dùng tricderma ủ nhân sinh khối để tưới thường xuyên. Đây cũng là một trong những cách khá hiệu quả trong việc phòng ngừa. Nhưng khi gặp các thời tiết bất lợi như mưa nhiều thì mọi thứ bị rửa trôi nên khả năng nhiễm bệnh không thể tránh khỏi.

Tác nhân mưa nhiều luôn là trong những nguyên nhân chính của việc nhiễm bệnh nấm và pH giảm. Có thể tưới nước lá trầu không (phòng ngừa nấm bề mặt như rỉ sắt khá tốt) hay tưới dung dịch nước javen pha loãng 0.5% hay boocdo… Các phương này có thể hiệu quả nhưng ảnh hưởng đến hệ thống vi sinh vật trong đất.

Khi cây măng tây nhiễm bệnh trên cần làm những việc sau:

Nghỉ dưỡng ngưng thu hoạch, tiến hành cắt tỉa toàn bộ cây bệnh, sau đó đốt bỏ tàn dư cây bệnh.

Bước 2: Kiểm tra nồng độ pH, nếu thấp thì nâng pH.

Bước 3: Tưới tricoderma ủ nhân sinh khối.

Bước 4: Tùy vào mức độ nặng nhẹ ta sẽ sử dụng phương pháp khác nhau như: nấm phomopsis ta dùng thêm các hoạt chất có gốc Carbendazim, Mancozeb, Propineb. Nấm đốm tím hay rỉ sắt ta dùng gốc Methyl thiophanate hoặc Chlorothalonil là hiệu quả nhất. Bệnh thối rễ như Fusarium hay Phytophthora bệnh lẫn trong đất là loại rất khó trị, chủ yếu chúng ta tricoderma tưới gốc hoặc nặng hơn là javen 0,5% hoặc boocdo mới triệt để. Nhưng nếu chúng ta dùng tricoderma thường xuyên thì hầu như không bị bệnh thối rễ.

Việc nhiễm bệnh nấm trong cây măng tây không thể tránh khỏi với phương pháp trồng ngoài trời. Vì vậy chúng ta hiểu đặc tính của chúng và dựa vào kinh nghiệm thời tiết của từng địa phương để có những phương pháp phòng tránh kịp thời.

Các loại sâu hại trên cây hiện nay

Biện pháp phòng trừ tổng hợp: Để ngăn chặn được một phần sâu bệnh hại nên làm đất kỹ theo đúng quy trình. Cũng có thể thắp đèn ban đêm diệt ngài trưởng thành, xay gừng tỏi ớt pha bỗng rượu để phun đuổi côn trùng.

Biện pháp hóa học: Sâu hại trên măng tây không đáng ngại vì có rất nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật có thể phòng trừ nhanh chóng tuy nhiên khi sử dụng cũng làm mất cân bằng hệ thống vi sinh vật trong đất. Chúng ta có thể sử dụng các loại thuốc sau: Biladen 500SC, Takumi, Basudin, Topsin, Supracide, Contidor, Regent, Anvil, Antracol,…

7. Thu hoạch măng tây xanh

Sau thời gian thu bói măng tơ và tiến hành chăm sóc giai đoạn 13, chúng ta tiến hành quan sát sự phát triển của cây. Thời điểm này, măng tây bắt đầu đến thời kỳ sinh thực, sản lượng măng bắt đầu tăng vọt (nếu điều kiện thời tiết tốt 23-30 ºC), chúng ta bắt đầu thu hoạch hàng ngày vào 5h – 8h sáng.

Trong những năm đầu tiên, khi bước vào thời kỳ thu hoạch, đối với các vườn măng tây trồng ngoài trời, chúng ta dựa theo thời tiết hiện tại. Nếu bước vào giai đoạn thuận lợi sẽ tiến hành thu hoạch măng tây sau đó bón NPK vừa phải (dưới 100kg NPK/ha), bổ sung phân hữu cơ, tưới tricoderma nấm đối kháng và vi lượng thường xuyên.

Nếu sản lượng và chất lượng của măng bắt đầu suy giảm, lập tức nghỉ dưỡng tiến hành chăm sóc, xử lý cỏ dại, sâu bệnh trong quá trình nghỉ dưỡng. Thông thường thời gian thu hoạch kéo dài 1-2 tháng, tùy vào độ tuổi hoặc thời tiết ngoài trời. Nếu cây có triệu chứng bệnh nấm, sâu hại, lập tức ngưng bón phân vô cơ, hữu cơ, tập trung cắt tỉa cây bệnh + tưới tricoderma + xử lý sâu bệnh. Sau khi cây hồi phục xanh tươi trở lại, tiếp tục bón phân hữu cơ + trùn quế + vi lượng + vô cơ. Thời gian nghỉ dưỡng có thể kéo dài 1-2 tháng, tùy vào thời tiết và khả năng phục hồi của cây mẹ, không nên nóng vội mà bón thúc để cây vào thời kỳ thu hoạch.

Tiêu chuẩn phân loại măng tây

Từ 1 – 3 là đạt tiêu chuẩn siêu thị và các khách sạn lớn 4-6 đạt tiêu chuẩn bình dân 7-9 là hàng chợ. Măng tây bung tán càng nhiều thì chất lượng càng giảm, sẽ có vị đắng và khiến người tiêu dùng quay lưng lại với măng tây.

Đường kính và chiều dài thông dụng các loại măng tây hiện nay:

Loại 2: đường kính thân giữa từ 7.0-9.9 mm, dài từ 25-27, không chứa gốc trắng xơ già

Loại 3: đường kính thân giữa từ 4.0-6.9 mm, dài từ 20-23 cm, không chứa gốc trắng xơ già.

Kết luận: Trồng măng tây đòi hỏi kỹ thuật và vốn đầu tư lớn sau đó thu hoạch trong nhiều năm. Vì vậy để trồng măng tây thành công người trồng cần trồng thử nghiệm trước với diện tích nhỏ, thành công, có kinh nghiệm sau đó mới nên mở rộng diện tích. Công ty TNHH Phát triển Nông nghiệp Việt Á xin chia sẻ kiến thức cơ bản nhất trong việc trồng măng tây. Nội dung này chỉ mang tính chất tham khảo hi vọng sẽ giúp ích một phần nào đó cho bạn đọc.