Top 8 # Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Cam Đường Canh Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 4/2023 # Top Trend | Inkndrinkmarkers.com

Quy Trình Thâm Canh Cam Đường Canh

Tùy theo địa hình đất (cao hay thấp, dễ hay khó thoát nước) mà lựa chọn phương pháp lên luống hay đắp ụ cho phù hợp.

Tùy theo địa hình đất (cao hay thấp, dễ hay khó thoát nước) mà lựa chọn phương pháp lên luống hay đắp ụ cho phù hợp.

Trồng cây chắn gió, thiết kế hàng rào bảo vệ, hệ thống thoát nước, hệ thống cung cấp nước tưới trước khi trồng cây.

Tùy theo khí hậu từng vùng, đất đai, kỹ thuật canh tác mà khoảng cách thay đổi cho phù hợp, khoảng cách trồng thích hợp nhất cho cam là 4 x 4m.

Đào hố trồng với kích thước: 1 x 1 x 1m. Khi đào, lớp đất mặt để riêng, lớp đất dưới trộn với phân chuồng, vôi bột, lân sau đó lấp hố cao hơn mặt đất 20 – 30cm.

Khi trồng, đào lỗ giữa mô, đặt bầu cây con xuống sao cho mặt bầu cao hơn mặt mô 3 – 5cm. Sau đó dùng đất vun tới mặt bầu rồi dận chặn, tưới nước.

Khi đặt cây phải xoay mắt ghép theo hướng chiều gió để tránh gãy nhánh, có thể cắm cọc để cây khỏi bị tác hại của gió.

Những năm đầu cây giống còn nhỏ chưa giao tán phải làm sạch cỏ gốc. Ở những vùng đất bằng hoặc hơi dốc nên trồng cây phân xanh ở giữa các hàng cây để vừa che phủ đất giữ ẩm, chống cỏ dại, tạo nguồn phân xanh cải tạo đất và cung cấp dinh dưỡng cho cây.

Đối với đất dốc, giữa các hàng cam gieo 1 hàng rào kép cây phân xanh thuộc loại thân bụi như muồng, cốt khí, keo, đậu để chống xói mòn và cung cấp chất hữu cơ tại chỗ. Lượng hạt cây phân xanh từ 20-25kg/ha. Diện tích đất trống còn lại trên băng gieo các loại cây họ đậu thân thảo như đậu hồng đáo, cỏ sytilo, lạc dại.. để che phủ, giữ ẩm đất và chống cỏ dại. Thường gieo trồng cây phân xanh trước khi trồng cam, hoặc ngay sau khi trồng.

Trụ cột của tán cây là 3 cành chủ C1, mỗi cành C1 lại có 2-3 cành C2. Cành cấp 1 mọc từ thân chính, cách mặt đất 50cm, xiên góc 60-80o so với thân chính. Cành cấp 2 mọc xiên 10-200 từ cành cấp 1, độ dài cành cấp 1 khống chế trong khoảng từ 50-60cm. Cành cấp 3 mọc xiên từ cành cấp 2 với góc 10-200. Cành mang quả là cành cấp 4, phân bố đều xung quanh tán cây.

Loại phân Lượng phân bón (g/cây)

+ Thời kỳ bón: Bón phân thúc 4-5 lần/năm vào các tháng 2, 4, 6, 10 và tháng 12. Lượng phân chia đều trong các lần bón.

+ Phương pháp bón: Lúc cây còn nhỏ, phân vô cơ được hòa với nước để tưới cho cây kết hợp với các đợt xới xáo làm cỏ.

Khi cây lớn, rạch rãnh xung quanh tán, rãnh sâu khoảng 10-15 cm, rắc phân vào rãnh rồi lấp đất lại. Mỗi lần bón phân đều phải kết hợp với làm cỏ, xới xáo gốc, tưới nước và tủ gốc cây.

Phân chuồng được bón với lượng 50-60kg/cây/năm, bón 1 lần cùng với lần bón phân hữu cơ vào đầu vụ xuân. Khi bón phân chuồng, rãnh bón được cuốc sâu và rộng hơn, sâu từ 15-20 cm, rộng từ 20-30 cm.

2.2. Chăm sóc thời kỳ kinh tế (sau thời kỳ kiến thiết cơ bản)

Thường xuyên phát cỏ, tủ gốc để giữ ẩm. Bổ sung nước tưới để duy trì ẩm độ đất đạt từ 70-75% sau khi đậu quả và trong giai đoạn quả lớn.

+ Lượng bón: Vào thời kỳ kinh tế, lượng phân bón chủ yếu dựa vào năng suất vụ trước đó để đảm nhu cầu dinh dưỡng cho cây.

Lượng phân bón được khuyến cáo sử dụng theo bảng sau:

+ Thời kỳ bón: Bón phân trong thời kỳ cây cho quả được chia làm 3 lần chính: bón sau thu hoạch quả, bón trước khi ra hoa và bón trong thời gian quả lớn. Lần bón thứ 3 có thể được chi thành 2-4 lần nhỏ, tùy điều kiện từng nơi. Lượng phân bón được áp dụng theo hướng dẫn trong bảng dưới.

* Bón sau thu hoạch: Rạch rãnh xung quanh tán (rộng 30cm, sâu 20 cm), rắc phân (phân vô cơ và hữu cơ) vào rãnh rồi lấp đất kín.

* Bón thúc: bón theo rãnh, rãnh sâu 10cm, rộng 15cm, mỗi lần bón phân đều phải kết hợp với làm cỏ, xới xáo gốc, tưới nước và tủ gốc lại gốc cây.

Tiến hành cắt tỉa 3 lần trong năm, vào các đợt sau:

+ Đợt 1: Cắt tỉa sau thu quả. Cắt bỏ tất cả những cành trong tán, cành nhỏ, cành yếu, cành sâu bệnh, một số cành vượt, cành mọc đan xen nhau. Cắt tỉa kết hợp với vệ sinh đồng ruộng, đốt bỏ hết tàn dư sâu bệnh trên vườn.

+ Đợt 2: Cắt vào vụ xuân, thời điểm cây ra hoa đậu quả: cắt bỏ những cành yếu, cành có chùm hoa nhỏ, cành sâu bệnh, cành mọc trong tán.

+ Đợt 3: Cắt tỉa vào vụ hè, giai đoạn quả lớn: Cắt bỏ những cành sâu bệnh, tỉa bỏ quả nhỏ quả dị hình.

– Trưởng đẻ trứng vào mặt dưới lá non. Sâu non đục vào lớp dưới biểu bì tạo đường hầm ngoằn ngoèo màu trắng bạc. Sâu non đẫy sức hoá nhộng ngay trong vòng cuộn của lá. Vòng đời sâu vẽ bùa ngắn, từ 17 – 23 ngày.

– Phòng trừ: phun Polytrin 440EC nồng độ 0,25%. Phun khi lộc non mới nhú, dài1-2cm

– Loài Hypomeces squamosus màu xanh vàng, kích thước lớn hơn loài Platymycterus sieversi, màu trắng đục. Khi có tiếng động, câu cấu lẩn trốn hoặc giả chết rơi xuống đất. Trưởng thành hoạt động giao phối vào ban ngày, trứng đẻ từng ổ 3-5 quả vào các kẽ thân cây hoặc mép lá khô. Sâu non nở ra rơi xuống đất, hoạt động dưới mặt đất. Trưởng thành vũ hoá sau những cơn mưa tháng 4-5 và tháng 7-9.

– Phòng trừ: phun Supracide 0,20 – 0,25%

– Vào tháng 4-5, trưởng thành đẻ trứng, từng quả, vào nách lá non, đỉnh chồi. Sâu non đục vào bên trong cành tạo đường ngoằn ngoèo xoáy trôn ốc. Lúc đầu, đường hầm đục hướng ra ngoài tán, sau đó đường đục quay vào phía trong thân và sâu hóa nhộng ở đó.

– Phòng trừ: Phun Supracide 0,2 – 0,25% khi lộc non xuất hiện hoặc bơm Ofatox 0,1% vào lỗ đục trên cành, sau đó dùng đất sét bít kín lỗ thông.

– Trưởng thành màu xanh đậm có những đốm trắng. Trưởng thành đẻ trứng, từng quả, vào các vết nứt của cây. Sâu non đục vào trong thân tạo đường ngoằn ngoèo hướng từ dưới lên trên, hoá nhộng ngay trong thân cây.

– Phòng trừ: vệ sinh vườn, gốc cây sạch sẽ. Thường xuyên dùng nước vôi đặc quét gốc để hạn chế trưởng thành đẻ trứng lên thân cây. Bơm Supracide 0,2 – 0,25% vào lỗ có sâu, dùng đất sét bịt kín lỗ sâu đục để diệt sâu non.

Nhóm ngài chích hút quả : Othreis fullonia, Ophiusa coronata, Ophiusa tirhaca.

– Trưởng thành hoạt động từ chập tối đến khoảng nửa đêm, hút dịch trên những quả cam chín. Quả bị ngài chích sẽ thối, sau đó bị rụng.

– Phòng trừ: Đặt bẫy dẫn dụ có trộn thuốc trừ sâu để diệt ngài, 10 bẫy/ha.

– Ruồi trưởng thành dài 4 – 5 mm, màu nâu đỏ, vân vàng. Trưởng thành cắm ống đẻ trứng vào quả, sâu non nở ra ăn thịt quả và phát triển thành dòi ở bên trong. Ruồi vàng phá hoại nặng vào tháng 8-9. Quả bị hại thường bị rụng sớm.

– Phòng trừ: dùng bả Metyleuzernol + Nalet tiêu diệt con trưởng thành.

– Rệp sống thành quần tụ, hút nhựa trên chùm hoa hay các bộ phận non. Chất bài tiết của rệp là môi trường thuận lợi cho nấm muội đen phát triển. Rệp gây rụng hoa, quả non, đọt non biến dạng, lá bị xoăn lại.

– Phòng trừ: phun DC Tron Plus 0,5%, Supracide 0,2% khi phát hiện thấy rệp hại

– Rầy trưởng thành màu xám nâu, dài 2,5 – 3 cm. Rầy cái đẻ trứng trên các lộc non vừa nhú, rầy có thể đẻ tới 800 quả trứng. Rầy trưởng thành hoạt động nhanh nhẹn, rầy con màu vàng sáng rất ít di động.

– Phòng trừ: Phun dầu DC Tron Plus 0,5%, Sherpa 0,2% để phòng trừ

– Nhện đỏ có chiều dài khoảng 0,5 mm, thân hình ô van, màu đỏ sẫm (Tetranychus) hoặc đỏ tươi (Panonychus citri), trên thân có lông dài thưa màu trắng hoặc hơi vàng. Trứng nhện màu đỏ tươi hình cầu hoặc hình củ hành. Nhện đẻ trứng sát gân lá, trên cả hai mặt lá.

– Phòng trừ: Phun Abarmactin: 0,3%, DC Tron Plus 0,5% , Pegarus 0,2%, Saromite 0,15%

Bệnh vàng lá: Greening do Liberibacter asiaticus

– Cây bị bệnh có hiện tượng “gân xanh lá vàng”. Bệnh thường biểu hiện từ những cành đơn lẻ, lá rụng dần và cành bị chết. Ở những cành bị bệnh, quả nhỏ, biến dạng, màu nhợt, chua.

– Phòng trừ: chặt bỏ những cây bị bệnh. Chăm sóc tốt cho vườn cam, trồng xen ổi để xua đuổi rầy chổng cánh.

Bệnh loét cam: Xanthomonas campestris citri

– Triệu chứng: Trên lá, khi mới xuất hiện, vết bệnh có dạng giọt dầu trong suốt, sau đó vết bệnh lan rộng ra thành hình tròn hay hình bất kỳ màu nâu nhạt, quầng vàng. Vết bệnh lan nhanh khi gặp nhiệt độ, ẩm độ cao. Khi cây bị bệnh, lá rụng hàng loạt, cành khô rồi chết, cây sinh trưởng kém, quả rụng sớm.

– Phòng trừ: phun dung dịch Boocđo 1%.

+ Bệnh chảy gôm: Phytophthora sp

– Bệnh chủ yếu hại các rễ tơ nơi tiếp giáp giữa bộ phận trên và dưới mặt đất. Ở cây bị bệnh, lá chuyển vàng, nhựa chảy ra từ các vết bệnh trên thân.

– Phun hoặc quét dung dịch Aliet 2% hoặc boocdo 3% lên thân cây.

Tiến hành thu hoặc khi quả chuyển màu vàng. Quả được thu hoạch vào ngày nắng khô ráo, không nên thu trái ngay sau mưa hoặc vào những ngày mù sương vì quả dễ bị ẩm thối. Quả thu xong cần để nơi thoáng mát, không nên tồn trữ quá 15 ngày kể từ khi thu hoạh vì làm giảm giá trị thương phẩm quả. Muốn bảo lâu, phải đặt quả nơi thoáng mát.

Nguồn: chúng tôi

Quy Trình Kỹ Thuật Chăm Sóc Cây Cam Đường Canh

Cam đường canh là giống quýt nhưng từ lâu được nhân dân ta quen gọi là cam. Hiện rất được nhiều địa phương trồng bởi đây là loại quả rất phổ biến, cho năng suất cao nếu sử dụng đúng quy trình kỹ thuật chăm sóc cây cam đường canh.

Đặc điểm nổi bật của cây

Cam đường canh là loại quýt cho quả ngọt, vỏ quả mang màu đỏ rất đặc trưng, cam đường cam cho quả rất ngọt và mùi thơm đặc trưng. Cây cam đường canh có sinh trưởng khỏe, cây trưởng thành cao 3-3,5m, tán cây kiểu hình dù, lá có màu xanh đậm, ra hoa tháng 2, tháng 4, thu hoạch vào tháng 11 và tháng 12. Quả cam đường canh có hình dẹt, chín có vỏ màu đỏ, dễ bóc, ruột màu vàng, ăn thơm, ngọt. Trọng lượng của mỗi quả là 80 – 120gr.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây

Cam đường canh thích nghi với mọi thời tiết khí hậu, được trồng ở rất nhiều nơi, cho năng suất cao khi có kỹ thuật trồng và chăm sóc tốt.

Làm đất: Đất trồng cam cần phải cam ráo, hệ thống thoát nước tốt nhằm tránh ngập lụt mỗi năm. Tại vùng đồng bằng, vũng trũng đào mương và lên luống. Ở vùng trung du cũng như miền núi cần chủ động về nguồn nước để có thể tưới khi cây khô hạn. Đào hố với kích thước là 60 x 60 x 50cm.

Bón phân: Bón lót phân chuồng hoại mục 50kg, lân 1kg, vôi bột 1kg cho mỗi hố và trộn kỹ với đất trước khoảng 30 ngày.

Trồng cây: Khi mang cây cam đường canh xuống đất cần phải đào hố tầm 15 – 30 ngày. Vét hố nhỏ đặt bầu và lấp đất vừa bầu, nén chặt. Tiếp đó cắm cọc chéo vào cây, buộc để tránh làm lay gốc. Tùy vào từng vùng đất xấu tốt mà cách bố trí mật độ cây khác nhau.

Kỹ thuật chăm sóc

Sau khi trồng, bà con cần phải thường xuyên tưới nước cho cây. Và thời gian cây ra hoa, ra trái và nuôi quả, nếu như cây cam đường canh thiếu nước sẽ đậu ít, bị rụng nhiều. Và thừa nước, cây dễ thối rễ cũng gây ra hiện tượng chết cây, vàng lá.

Bón thúc: Sau tháng cây hồi phục sử dụng nước phân lợn, nước giải ủ pha loãng tầm 10 lần với nước lã, nước phân đạm, cứ cách 15 – 20 ngày sẽ tưới 1 lần. Bên cạnh đó, bón phân hữu cơ 10kg + super lân 300g, kali 100g, ure 100g.

Tỉa mầm: Thời kỳ cây ra quả, sau khi thu hoạch xong cần phải đốn tỉa cành tăm, cành vượt, cành khô, cành sâu bệnh. Đốn tỉa phải tiến hành thường xuyên tạo cho cây có mầm mới, không sâu bệnh.

Phòng trừ bệnh, sâu hại

Cam đường canh bệnh hại ít nhưng cũng cần phải để ý tới bọ xít, rầy rệp, bệnh đốm lá … Nếu trường hợp thấy cay có hiện tượng ở trên thì bà con nên dùng thuốc bảo vệ thực vật để phun.

Sâu vẽ bùa: ở trên lá, tạo ra các lớp ngoằn ngoèo sáp trắng, lá xoăn. Phòng trừ bằng cách phun thuốc phòng từ 1 – 2 lần khi cây có đợt lộc non.

Nhện: Sử dụng thuốc Comite 73EC 10ml/10 lít nước, dầu khoáng SK, Ortus 5 SC, Newsodan 5.3 EC pha với nồng đồ đã được khuyến cáo, phun ướt 2 mặt lá, phun khi cây ra lộc non.

Bệnh chảy gôm: Hay thấy ở phần gốc cây. Phòng trừ bằng thuốc Aliette 800 WP

Công dụng của cây

Cam đường canh là 1 trong những loại hoa quả có chứa nhiều tinh dầu mang mùi thơm, chứa rất nhiều vitamic C, mát và bổ dưỡng đến cho cơ thể. Bên cạnh đó, cam có tác dụng chữa bệnh như tăng cường thể lực, ngăn ngừa xơ cứng động mạch, phòng chống ung thư, bảo vệ da, ngăn ngừa táo bón … Do đó, cam đường canh chính là loại quả có giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cao.

Chúng tôi chuyên cung cấp cây giống chính gốc

Mọi thông tin vui lòng liên hệ:

Trường ĐH Nông Nghiệp Hà Nội – Trung Tâm Cây Giống Chất Lượng Cao

Địa chỉ: Trâu Quỳ- Gia Lâm- Hà Nội

Email: [email protected]

Điện thoại: 0912 850 282

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Cam V2

Quy trình kỹ thuật trồng Cam V2

Cam V2 là giống cam ngọt chín muộn, khả năng thích nghi rộng, kháng bệnh tốt. Cây sinh trưởng phát triển tốt, phân cành đều, cây cân đối, khả năng ra hoa đậu quả cao

1. Chuẩn bị đất và chuẩn bị đất trồng:

* Chọn đất: – Có tầng dầy từ 1 m trở lên, kết cấu xốp để giữ mầu, và thoát nước tốt, giàu mùn và các chất dinh dưỡng. Độ dốc của đất từ 3- 20 o (tốt nhất là 3-8 o ).

– Chọn địa điểm trồng: + Xa các vườn cây ăn quả có múi đã bị nhiễm bệnh virus hoặc tương tự virus, bệnh vi khuẩn như bệnh loét.

+ Không trồng trên các vườn đã trồng cây ăn quả có múi cũ đã có triệu chứng tiền nhiễm tuyến trùng hoặc các bệnh nấm như Phytophthora.

+ Không nên trồng trên các vùng quá khô hạn, xa nguồn nước tưới hoặc nơi đất trũng, khó thoát nước.

+ Vệ sinh đồng ruộng: Chặt bỏ các cây có múi bị bệnh virus hoặc tương tự virus ở vùng xung quanh. – Giải phóng đất sớm trước khi trồng. Nếu là đất chu kì 2 nên trồng 2-3 vụ cây họ đậu để cải tạo đất.

+ Tạo cách ly không gian với các vùng xung quanh để tránh các vectors lây nhiễm bệnh: Trồng hàng cây chắn gió, tốt nhất nên trồng bạch đàn, keo tai tượng, cao su… Hàng cây chắn gió có thể ngăn được một số loài sâu bệnh hại, vectors truyền bệnh và ngăn cản được những đợt gió mạnh và nóng đặc biệt là các tỉnh Bắc Trung bộ… làm giảm nhiệt độ và giảm thoát nước bề mặt khi gặp gió Tây Nam.

* Chuẩn bị đất trồng

Bao gồm: phát quang, san mặt bằng; thiết kế vườn trồng; đào hố; bón phân lót và lấp hố; các công việc khác như làm đường, mương rãnh tưới tiêu nước,…

– Phát quang và san ủi mặt bằng

+ Đối với những đồi rừng chuyển sang trồng cây ăn quả nói chung và trồng cam V2 đều phải phát quang, thậm chí phải đánh bỏ toàn bộ rễ cây rừng và san ủi tạo mặt phẳng tương đối để cho việc thiết kế vườn được dễ dàng. Trừ những nơi đất quá dốc ( từ khoảng 100 trở lên ) sẽ áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, nghĩa là chỉ phát quang, dãy cỏ, san lấp những chỗ quá gồ ghề sau đó thiết kế và đào hố trồng cây, còn ở những nơi đất không quá dốc hoặc bằng, sau khi phát quang, san ủi sơ bộ có thể dùng cày máy hoặc cày trâu cày bừa một lượt để vừa sạch cỏ vừa tạo cho bề mặt vườn tơi xốp ngăn được sự bốc hơi nước của vườn sau khi bị phát quang.

+ Đối với các loại đất chuyển đổi khác sang trồng cam V2 cũng cần phải dọn sạch và tạo lại mặt bằng trước khi thiết kế .

– Thiết kế vườn trồng Thiết kế vườn trồng bao gồm các nội dung công việc như bố trí lô thửa, đường đi, mương, rãnh tưới tiêu nước, bố trí mật độ, khoảng cách vv…

+ Tuỳ theo quy mô diện tích và địa hình đất mà có thiết kế vườn trồng một cách phù hợp. Đối với đất bằng hoặc có độ dốc từ 3 – 50 nên bố trí cây theo kiểu hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình tam giác ( kiểu nanh sấu ). Đất có độ dốc từ 5 – 100 phải trồng cây theo đường đồng mức, khoảng cách của hàng cây là khoảng cách của đường đồng mức. Ở độ dốc 8 -100 nên thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang đơn giản , dưới 80 có thể áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, trên 100 phải thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang kiên cố.

+ Đối với vườn diện tích nhỏ dưới 1ha không cần phải thiết kế đường giao thông, song với diện tích lớn hơn thậm chí tới 5 – 10 ha cần phải phân thành từng lô nhỏ có diện tích từ 0,5 đến 1ha/lô và có đường giao thông rộng để có thể vận chuyển vật tư phân bón và sản phẩm thu hoạch bằng xe cơ giới, đặc biệt đối với đất dốc cần phải bố trí đường

+ Thiết kế lô, thửa, xây dựng hệ thống chống xói mòn, hệ thống tưới và thoát nước.

+ Chọn cây ngắn ngày trồng xem thích hợp, nhất là cây họ đậu.

2. Thời vụ trồng: Ở các tỉnh phía Bắc thời vụ trồng cam quýt là mùa xuân (Tháng 2 – 4) hoặc mùa thu. Nhưng tốt nhất là trồng vào mùa xuân hoặc đầu mùa mưa.

3. Mật độ: Mật độ trồng nên trồng 4 x 5 m. 4. Kỹ thuật trồng

– Đào hố : hố trồng cam có kích thước 0,8 x 0,8 x 0,8m hoặc 1 x 1 x 1m, khi đào hố cần lưu ý để lớp đất mặt về một phía, lớp đất phía dưới về một phía. Sau khi đào hố xong, hố được phơi khô ít nhất là 1 tháng, dùng 1kg vôi bột rắc xung quanh hố. Ở các vùng đất cứng, thoát nước kém hố đào sâu có thể trở thành vũng nước mưa, gây nghẹt rễ, cần có biện pháp thoát nước.

– Chuẩn bị phân bón lót: Mỗi hố bón từ 50- 80kg phân chuồng hoai mục + 1kg P 2O 5 + 5 – 10 kg xỉ than trộn với lớp đất phía dưới cho vào hố, lớp đất mặt + 100g urê + 100g K 2O 5. Trồng xong nên phủ gốc để chống thoát hơi nước và cỏ dại, phủ cách gốc 10cm.

– Chăm sóc

+ Làm cỏ: Cỏ xung quanh gốc cần được nhổ sạch. Phần đường lô nên chỉ cắt cỏ để giữ ẩm, chống xói mòn đất và là nơi cư trú của côn trùng có ích trong vườn cam.

+ Bón phân: Bón phân nhằm cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cây bao gồm nguyên tố đa lượng (N, P, K, Ca), các nguyên tố vi lượng (Bo, Cu, Zn, Mn, Mg…) để cây sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất và chất lượng cao, tăng cường khả năng chống chịu sâu bệnh hại. Hàng năm cần bón bổ sung 30- 40kg phân chuồng hoặc phân hữu cơ/cây kết hợp với bón phân hoá học. Cách bón: Đào rãnh sâu 25-30cm theo tán cây, bón rồi lấp đất lại và tưới nước.

+ Tỉa cành tạo tán: Sau khi trồng cây đã ổn định tiến hành cắt cành ngọn để tạo tán cho cây phát triển thành 3-4 cành cấp I theo 4 hướng, từ mỗi cành cấp I lại để 3-4 cành cấp II… Các cành vượt cũng thường xuyên cắt tỉa (chú ý cắt sát thân cành để tạo mô sẹo). Cành mang quả nhiều cũng cần tỉa quả để quả phát triển đồng đều.

+ Tưới nước: Sau khi trồng nên tưới nước 2-3 lần nếu trời không mưa để tạo điều kiện cho rễ phát triển. Những nơi có hệ thống tưới cần chú ý tưới cho cây ở thời kỳ phát lộc hoặc sau các đợt bón phân.

– Chống tái nhiễm bệnh: Thường xuyên thăm vườn, cắt cành hoặc chặt bỏ cành, cây có triệu chứng bệnh greening và các bệnh virus khác. Phun thuốc trừ sâu nội hấp khi phát hiện rầy chổng cánh (Diaphorina citri) môi giới truyền bệnh greening và rệp aphid môi giới truyền bệnh Tristeza (chú ý các đợt lộc).

5. Phòng trừ tổng hợp các loại sâu bệnh: Trong vườn cây có múi nhiều loại sâu bệnh khác như: sâu đục thân, sâu vẽ bùa, nhện, bệnh loét, bệnh chảy gôm… Các loại sâu bệnh này chỉ có thể phòng trừ có hiệu quả bằng việc áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp.

5.1. Sâu hại

Sâu vẽ bùa (Phyllosnis Citrella): Phá hoại chủ yếu ở thời kỳ vườn ươm và cây nhỏ 3-4 năm đầu mới trồng. Trên cây lớn thường phá hoại vào thời kỳ lộc non, nhất là đợt lộc xuân. Dù ở thời kỳ nào của cây cam, sâu chỉ đẻ trứng và phá trên các búp non. Sâu non nở ra ăn lớp biểu bì trên lá, tạo thành những vết ngoằn ngèo,có phủ sáp trắng,lá xoăn lại , cuối đường cong vẽ trên mặt lá có sâu non bằng đầu kim. Sâu phá hoại mạnh ở tất cả các tháng trong năm (mạnh nhất là từ tháng 2 tới tháng 10).

Phun thuốc phòng 1-2 lần trong mỗi đợt cây có lộc non là hiệu quả nhất (lúc lá non dài1-2 cm)

Dùng thuốc Trebon hoặc Sherpa pha với nồng độ 1/1000 – 1,5/1000. Khi xuất hiện sâu trừ diệt bằng một trong hai loại thuốc trên nhưng cần pha thêm dầu Cantect để phun trừ thì diệt sâu mới có hiệu quả. Phun ướt hết mặt lá.

Sâu đục thân (Chelidonium argentatum), đục cành (Nadezhdiella cantori) xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 9.

– Đặc điểm gây hại:

Sâu trưởng thành đẻ trứng vào các kẽ nứt trên thân, cành chính. Sâu non nở ra đục vào phần gỗ tạo ra các lỗ đục, trên vết đục xuất hiện lớp phân mùn cưa đùn ra.

– Phòng trừ:

+ Bắt diệt sâu trưởng thành (Xén tóc) + Phát hiện sớm vết đục, dùng dây thép nhỏ luồn vào lỗ đục để bắt sâu non + Sau thu hoạch (tháng 11 – 12) quét vôi vào gốc cây để diệt trứng + Bơm các loại thuốc xông hơi như Ofatox 400 EC 0,1%; Supracide 40ND 0,2% vào các vết đục, sau sau đó dùng đất dẻo bít miệng lỗ lại để diệt sâu. sâu đục thân đục cành thường đẻ trứng ở các kẽ nứt của vở ở phần thân cây và gốc cây, vì vậy vào tháng 11- 12 thường dùng vôi quét vào gốc cây sẽ có tác dụng làm nấp những kẽ nứt ở vỏ cây không cho sâu có chỗ đẻ trứng và tiêu diệt (làm bị ung những trứng sâu đã đẻ trong kẽ nứt) Nhện đỏ (Paratetranychus Citri): Phát sinh quanh năm hại lá chính, chủ yếu vào vụ đông xuân.

Nhện đỏ rất nhỏ, thường tụ tập thành những đám nhỏ ở dưới mặt lá, hút dịch lá làm cho lá bị héo đi. Trên lá nơi nhện tụ tập thường nhìn thấy những vùng tròn bị bạc hơn so với chỗ lá không có nhện, hơi phồng lên nhăn nheo. Những cây cam quýt hoặc vườn cam quýt gần nương chè thường hay có nhện đỏ phá hoại.

Nhện trắng (Phyllocoptes oleivorus) phát sinh chủ yếu trong thời kỳ khô hạn kéo dài và ít ánh sáng (trời âm u hoặc cây bị che bởi các cây khác). Nhện trắng là nguyên nhân chủ yếu gây ra rám quả, các vết màu vàng sáng ở dưới mặt lá.

Để chống nhện trắng và nhện đỏ, dùng thuốc Monocrophos 56% để phun với nồng độ 1- 2% (tức 10- 20 ml thuốc/10 lít nước), hoặc dùng thuốc Methamidophos 600 dạng nước pha nồng độ 1- 2% để phun. Nếu không có 2 loại thuốc trên thì dùng Kentan (thuốc vẫn dùng cho chè) pha nồng độ 1- 2/1000. Cần phun ướt cả mặt dưới lá và phun lúc cây đang ra lộc non để phòng. Nếu đã bị phá hại phải phun liên tục mỗi lần cách nhau 5- 7 ngày.

Rệp cam: chủ yếu hại các lá non cành non. Lá bị xoán rộp lên, rệp tiết nước nhờn khiến lá bị muội đen.

Rệp sáp: trên mình phủ 1 lớp bông hoặc sáp màu trắng hình gậy, hình vảy ốc, có thể màu hồng hoặc màu xám nâu. Cam ở gần ruộng mía thường hay bị rệp từ mía lan sang.

Dùng Trebon, Sherpa pha với nồng đọ 1- 2/1000 phun 1- 2 lần vào thời kỳ lá non. Khi xuất hiện rệp, muốn điều trị có hiệu quả cần pha thêm một ít xà phòng để có tác dụng phá lớp sáp phủ trên người rệp làm cho thuôc dễ thấm.

Ruồi vàng hại quả

Ruồi trưởng thành đẻ trứng vào vỏ quả, sâu non nở thành dòi đục vào trong quả làm thối quả. Khi trứng chưa nở ngoài vỏ quả cam chỉ thấy một vết châm rất nhỏ, nhưng khi trứng nở thành dòi vết châm bị thâm nâu và lan rộng, ấn tay vào thấy nước cam phòi ra, bên trong quả đã rất nhiêu dòi. Dùng bả gồm Methyl Eugenol 90 – 95% + 5 -10% Nalet. 2ml cho một bả, mỗi bả dùng cho 50 cây, đánh liên tục 10 – 12 lần trong mùa quả chín. Phun Sherpa, Trebon 1 – 2/1000 cho vườn cây 3 – 4 lần, cách nhau 5 -7 ngày.

5.2. Bệnh hại

5.2.1. Các bệnh do nấm * Bệnh loét cam quýt (Xanthomonas Citri) và bệnh sẹo (Ensinoe Faucetti Jenk) gây hại chủ yếu ở thời kỳ vườn ươm và cây mới trồng 1-3 năm. Trên lá thấy xuất hiện các bệnh màu nâu, có thể lốm đốm hoặc dầy đặc trên mặt lá, hình tròn, bề mặt vết bệnh sần sùi gồ ghề. Nếu bệnh xuất hiện trên cành sẽ nhìn thấy các đám sần sùi giống như ghẻ nở có màu vàng hoặc màu nâu. Cành bị nhiều vết bệnh sẽ khô và chết.

Trị bệnh loét sẹo bằng cách phun boocđô 1-2% hoặc thuốc Kasuran 1/1000.

Cách pha thuốc boocđô cho bình 10 lít:

– Dùng 0,1 kg sunfat đồng + 0,2 kg vôi tôi (nồng độ 1%) – Lấy 7 lít nước pha với đồng sunfat đánh cho tan đều pha với 3 lít nước đã pha với vôi, lọc bỏ cặn bã (làm như vậy để tránh kết tủa khi phun không bị tắc vòi phun)

* Bệnh chảy gôm (Phytophthora Citropthora): bệnh thường phát sinh ở phần gốc cây cam quýt cách mặt đất từ 20 – 30 cm trở xuống cổ rễ.

Giai đoạn đầu bệnh mới phát sinh thường vỏ cây bị những vết nứt và chảy nhựa (gôm). Bóc lớp vỏ ra ở phần gỗ bị hại có màu xám và có thể nhìn thấy sợi nâu hoặc đen chạy dọc theo thớ gỗ. Bệnh nặng lớp vỏ bị hại sẽ thối rữa và tuột khỏi thân cây, phần gỗ bên trong lớp vỏ hoá đen xám. Nếu tất cả xung quanh phần cổ rễ bị hại cây sẽ bị chết ngay, còn bị hại một phần thì lá bị vàng cây sinh trưởng kém. Bới sâu xuống đất có thể thấy nhiều rễ cũng bị thối. Những địa hình thoát nước kém cây dễ bị bệnh chảy gôm.

Cách phòng trị: dùng thuốc boocđô 1-2% để phun trên cây và đổ trực tiếp vào vết bệnh. Nếu cả rễ bị bệnh có thể đào lên loại bỏ rễ thối và xử lý thuốc. Ngoài ra có thể dùng thuốc Aliette hoặc thuốc benlat pha với nồng độ 2/1000 để xử lý các vết bệnh và phun trên lá.

6.2.2. Các bệnh do virus.

* Bệnh greening (Bệnh gân xanh lá vàng)

Tác nhân gây bệnh là một vi khuẩn sống trong tế bào, gram âm, phá hại chủ yếu các mạch libe ở các bộ phận còn non, rất phổ biến ở Đông Nam á.

Triệu chứng:

+ Trên cây nhỏ, cây lùn nhỏ, tán lá không đều, lá nhỏ đi. Lá biến vàng lốm đốm hoặc vàng lá gân xanh.

+ Trên cây lớn: Cũng giống như cây nhỏ nhưng chỉ xuất hiện trên một vài lá, một vài cành, bị nặng thì mới xuất hiện trên toàn cây. Bệnh lây truyền qua chiết ghép và môi giới truyền bệnh phòng trừ bệnh greening cũng như nhiều bệnh vi rút khác cần tiến hành theo 2 hướng: giảm số lượng côn trùng môi giới trong tự nhiên và dùng cây giống sạch bệnh. Để hạn chế bệnh Greening: Trồng xen ổi với mật độ 2 hàng cam Valencia, 1 hàng ổi có tác dụng rõ trong việc hạn chế sự xuất hiện của rày chổng cánh – đối tượng truyền bệnh nguy hiểm.

* Bệnh Tristeza

Triệu chứng giống như bệnh Greening, nhưng phần bị bệnh phá hại là gốc cây, cho nên khi cây bị bệnh thì toàn bộ lá trên cây đều bị vàng, giống như bệnh chảy gôm. Chỉ khác bệnh chảy gôm là lá cây bị bệnh tristeza chuyển màu vàng gần trong và bị biến dạng, sinh cành, còn cây bị bệnh chảy gôm thì lá chỉ bị vàng và không bị biến dạng.

Gốc cây bị bệnh, có thể bị những vết lõm, vỏ chỗ vết lõm bị nứt. Nếu bóc lớp vỏ ra thấy phần gỗ bên trong bị hoá bẩn (nhìn thấy một đám trắng xôm xốp). Nhìn kỹ thấy những mụn gỗ nhỏ li ti nổi lên đám gỗ hoá bần. Cây bị bệnh Tristeza chết rất nhanh, từ khi phát hiện thấy vàng lá chỉ trong vòng vài tuần hoặc một tháng cây có thể chết. Lịch phát sinh sâu bệnh hại thường thay đổi tuỳ thuộc vào điệu kiện cụ thể của từng năm. Cần theo dõi thường xuyện diễn biến sâu bệnh hại để có biện pháp phòng trừ kịp thời. 6. Thu hoạch và bảo quản

– Cần thu hoạch kịp thời để không ảnh hưởng tới phẩm chất quả. Khi quả có 1/3 – 1/2 vỏ quả chuyển màu là thu hoạch được. – Khi thu hái nên dung kéo cắt cuống quả, không làm xây xát vỏ quả, gãy cành. Phân loại trước khi cất giữ hoặc vận chuyển bán ngoài thị trường.

Cây Giống Cam Đường Canh

Có tên gọi cam nhưng quả chỉ nhỉnh hơn quả quýt chút xíu. Vỏ mỏng và ăn rất ngọt và thanh. Cam đường canh là loại quả hiện đang được nhiều người tìn mua mỗi khi đến mùa. Cam đường canh thực ra là một giống quýt nhưng từ lâu người dân quen miệng gọi là cam đường canh. Ở nhiều địa phương giống cam đường này thường được gọi với các tên gọi khác như cam canh, cam giấy vv. Đây là giống quả khá dễ tính nên được trồng nhiều nơi quanh nước ta. Cam đường canh cho quả hình cầu dẹt khi chín từ màu xanh chuyển sang màu đỏ óng. Cũng do vỏ quả khá mỏng nên nhiều nơi gọi là giống cam giấy. Bên trong có ruột màu vàng ăn khá ngọt và thơm.

Cam đường canh khi chín từ màu xanh chuyển sang màu đỏ óng

Cam canh giống cam ngon của Việt Nam

Cam đường canh là loại quả có nhiều giá trị dinh dưỡng. Hàm lượng chất xơ cao cùng hàng loạt các nhóm vitamin và khoáng chất giúp bồi bổ cơ thể nâng cao sức đề kháng một cách hiệu quả. Không chỉ vậy, giá trị kinh tế của cam đường canh khá cao. 1ha trồng theo đúng kĩ thuật có thể thu về 50 tấn quả thành phẩm. Hiện nay giống cam đường canh tập trung chủ yếu ở các tỉnh Bắc Giang, Yên Bái, Hòa Bình vv đem lại tiềm năng kinh tế lớn cho các địa phương này.

Cam đường canh ngọt lịm giá trị dinh dưỡng cao

Cây cam đường canh khá đễ tính. Chúng có thể trồng ở nhiều vùng khác nhau của cả nước. Với khả năng chống lại sâu bệnh hại và khô hạn cao nên đây được coi là cây vừa trồng làm cảnh và vừa làm kinh tế.

Việc chọn lựa cây giống đem trồng là yếu tố đầu tiên cực kì quan trọng để giúp cây đạt chất lượng tốt nhất sau này. Cây giống có thể là cây ghép hoặc cây chiết và đều phải là những cây khỏe mạnh không bệnh tật. Cây có chiều cao tương đối từ 30cm trở lên đường kính thân lớn hơn 0,5cm.

Chọn tiêu chuẩn giống cây cam đường canh Chọn cây giống cam canh vui lòng liên hệ với chúng tôi 08 6662 3663 Trung Tâm chuyển giao giống cây ăn quả Học Viện Nông Nhiệp Việt Nam

Theo kinh nghiệm của nhiều nhà làm vườn thì cây cam canh có thể trồng quanh năm nhưng thời điểm đầu mùa xuân và cuối mùa mưa tháng 9 là thích hợp nhất.

Muốn trồng cam được tốt thì đất trồng cần phải có hệ thống thoát nước tốt. Những vùng cao cần phải có hệ thống tưới nước nhất là vào mùa khô. Nơi thấp trũng cần phải đào mương lên luống tránh ngập úng. Hố trồng cây cam đường canh có kích thước tiêu chuẩn từ 60x60x60cm và các hố cách nhau từ 3m trở lên.

Trước khi có ý định trồng 1 tháng bạn nên chuẩn bị hố trồng và bón lót cho hố. Lượng phân chuồng hoai mục kèm NPK và một lượng vôi bột sẽ tùy thuộc vào chất đất và độ pH. Khi bón bạn trộn đều hỗn hợp lại với nhau và bón đều xung quanh hố. Lấp đất lại và chờ 1 tháng sau rồi tiến hành trồng. Sau 1 tháng hố đã được xử lý bạn tiến hành trồng cây con giống. Đào hố nhỏ bằng kích thước bầu đất và cho bầu đất vào rải đất phủ kín phần rễ và dùng tay lèn chặt cố định cây giống cho thẳng. Sau khi trồng tiến hành tưới nước ngay. Chú ý nếu trồng vào mùa khô có thể rải xung quanh gốc cây một ít rơm rạ để giữ nước tránh bốc hơi.

Trồng và chăm sóc cây cam đường canh ra sai quả

Cay cam đường canh là giống cây ưa nước. Tùy vào điều kiện đất và sinh trưởng của cây mà có chế độ tưới nước cho phù hợp. Chú ý giai đoạn mới trồng trong 30 ngày tiếp theo bạn định kì 2 ngày nước nước 1 lần sau đó giảm dần tần suất tưới.

Vào thời điểm cây bắt đầu ra cành mạnh bạn nên tiến hành thăm vườn thường xuyên để cắt tỉa loại bỏ những cành già, cành héo sâu bệnh để cây tập trung sức nuôi cành mới cành khỏe mạnh. Dưới gốc nên thường xuyên cắt tỉa cỏ dại và vun xới gốc định kì cho đất được thông thoáng. Trong giai đoạn đầu bạn có thể trồng xen thêm những loại cây chắn gió để không những tránh gió bão cho cây mà còn giúp hạn chế sự bốc hơi nước.

Xếp sau nước thì việc bón phân cũng quan trọng không kém. Khi cây phát triển được 3 tháng thì bạn tiến hành bón phân chuồng hoai mục cho cây định kì hàng năm. Năm 1-3 lượng phân bón cho cây khoảng 10kg phân chuồng hoai mục. Phân NPK 1kg. Giai đoạn từ năm thứ 3 trở đi bạn bón cho cây khoảng từ 10-30kg phân chuồng hoai mục và 1kg phân NPK.

Chú ý việc chăm sóc cam đường canh thật tốt

Khi quả chuyển từ xanh sang vàng đỏ sậm là lúc mùa thu hoạch đã đến. Nên thu hoạch quả vào lúc trời khô ráo râm mát. Sử dụng kéo chuyên dụng cắt sát từng chùm quả. Đặt nhẹ nhàng trong thùng xốp hoặc sọt và để nơi thoáng mát. Sau mỗi đợt thu hoạch bạn tiến hành vệ sinh xung quanh gốc cây, cắt tỉa những cành sâu bệnh và cành già để chuẩn bị chăm sóc cho vụ mới.