Top 3 # Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Cam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Inkndrinkmarkers.com

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Cam V2

Quy trình kỹ thuật trồng Cam V2

Cam V2 là giống cam ngọt chín muộn, khả năng thích nghi rộng, kháng bệnh tốt. Cây sinh trưởng phát triển tốt, phân cành đều, cây cân đối, khả năng ra hoa đậu quả cao

1. Chuẩn bị đất và chuẩn bị đất trồng:

* Chọn đất: – Có tầng dầy từ 1 m trở lên, kết cấu xốp để giữ mầu, và thoát nước tốt, giàu mùn và các chất dinh dưỡng. Độ dốc của đất từ 3- 20 o (tốt nhất là 3-8 o ).

– Chọn địa điểm trồng: + Xa các vườn cây ăn quả có múi đã bị nhiễm bệnh virus hoặc tương tự virus, bệnh vi khuẩn như bệnh loét.

+ Không trồng trên các vườn đã trồng cây ăn quả có múi cũ đã có triệu chứng tiền nhiễm tuyến trùng hoặc các bệnh nấm như Phytophthora.

+ Không nên trồng trên các vùng quá khô hạn, xa nguồn nước tưới hoặc nơi đất trũng, khó thoát nước.

+ Vệ sinh đồng ruộng: Chặt bỏ các cây có múi bị bệnh virus hoặc tương tự virus ở vùng xung quanh. – Giải phóng đất sớm trước khi trồng. Nếu là đất chu kì 2 nên trồng 2-3 vụ cây họ đậu để cải tạo đất.

+ Tạo cách ly không gian với các vùng xung quanh để tránh các vectors lây nhiễm bệnh: Trồng hàng cây chắn gió, tốt nhất nên trồng bạch đàn, keo tai tượng, cao su… Hàng cây chắn gió có thể ngăn được một số loài sâu bệnh hại, vectors truyền bệnh và ngăn cản được những đợt gió mạnh và nóng đặc biệt là các tỉnh Bắc Trung bộ… làm giảm nhiệt độ và giảm thoát nước bề mặt khi gặp gió Tây Nam.

* Chuẩn bị đất trồng

Bao gồm: phát quang, san mặt bằng; thiết kế vườn trồng; đào hố; bón phân lót và lấp hố; các công việc khác như làm đường, mương rãnh tưới tiêu nước,…

– Phát quang và san ủi mặt bằng

+ Đối với những đồi rừng chuyển sang trồng cây ăn quả nói chung và trồng cam V2 đều phải phát quang, thậm chí phải đánh bỏ toàn bộ rễ cây rừng và san ủi tạo mặt phẳng tương đối để cho việc thiết kế vườn được dễ dàng. Trừ những nơi đất quá dốc ( từ khoảng 100 trở lên ) sẽ áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, nghĩa là chỉ phát quang, dãy cỏ, san lấp những chỗ quá gồ ghề sau đó thiết kế và đào hố trồng cây, còn ở những nơi đất không quá dốc hoặc bằng, sau khi phát quang, san ủi sơ bộ có thể dùng cày máy hoặc cày trâu cày bừa một lượt để vừa sạch cỏ vừa tạo cho bề mặt vườn tơi xốp ngăn được sự bốc hơi nước của vườn sau khi bị phát quang.

+ Đối với các loại đất chuyển đổi khác sang trồng cam V2 cũng cần phải dọn sạch và tạo lại mặt bằng trước khi thiết kế .

– Thiết kế vườn trồng Thiết kế vườn trồng bao gồm các nội dung công việc như bố trí lô thửa, đường đi, mương, rãnh tưới tiêu nước, bố trí mật độ, khoảng cách vv…

+ Tuỳ theo quy mô diện tích và địa hình đất mà có thiết kế vườn trồng một cách phù hợp. Đối với đất bằng hoặc có độ dốc từ 3 – 50 nên bố trí cây theo kiểu hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình tam giác ( kiểu nanh sấu ). Đất có độ dốc từ 5 – 100 phải trồng cây theo đường đồng mức, khoảng cách của hàng cây là khoảng cách của đường đồng mức. Ở độ dốc 8 -100 nên thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang đơn giản , dưới 80 có thể áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, trên 100 phải thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang kiên cố.

+ Đối với vườn diện tích nhỏ dưới 1ha không cần phải thiết kế đường giao thông, song với diện tích lớn hơn thậm chí tới 5 – 10 ha cần phải phân thành từng lô nhỏ có diện tích từ 0,5 đến 1ha/lô và có đường giao thông rộng để có thể vận chuyển vật tư phân bón và sản phẩm thu hoạch bằng xe cơ giới, đặc biệt đối với đất dốc cần phải bố trí đường

+ Thiết kế lô, thửa, xây dựng hệ thống chống xói mòn, hệ thống tưới và thoát nước.

+ Chọn cây ngắn ngày trồng xem thích hợp, nhất là cây họ đậu.

2. Thời vụ trồng: Ở các tỉnh phía Bắc thời vụ trồng cam quýt là mùa xuân (Tháng 2 – 4) hoặc mùa thu. Nhưng tốt nhất là trồng vào mùa xuân hoặc đầu mùa mưa.

3. Mật độ: Mật độ trồng nên trồng 4 x 5 m. 4. Kỹ thuật trồng

– Đào hố : hố trồng cam có kích thước 0,8 x 0,8 x 0,8m hoặc 1 x 1 x 1m, khi đào hố cần lưu ý để lớp đất mặt về một phía, lớp đất phía dưới về một phía. Sau khi đào hố xong, hố được phơi khô ít nhất là 1 tháng, dùng 1kg vôi bột rắc xung quanh hố. Ở các vùng đất cứng, thoát nước kém hố đào sâu có thể trở thành vũng nước mưa, gây nghẹt rễ, cần có biện pháp thoát nước.

– Chuẩn bị phân bón lót: Mỗi hố bón từ 50- 80kg phân chuồng hoai mục + 1kg P 2O 5 + 5 – 10 kg xỉ than trộn với lớp đất phía dưới cho vào hố, lớp đất mặt + 100g urê + 100g K 2O 5. Trồng xong nên phủ gốc để chống thoát hơi nước và cỏ dại, phủ cách gốc 10cm.

– Chăm sóc

+ Làm cỏ: Cỏ xung quanh gốc cần được nhổ sạch. Phần đường lô nên chỉ cắt cỏ để giữ ẩm, chống xói mòn đất và là nơi cư trú của côn trùng có ích trong vườn cam.

+ Bón phân: Bón phân nhằm cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cây bao gồm nguyên tố đa lượng (N, P, K, Ca), các nguyên tố vi lượng (Bo, Cu, Zn, Mn, Mg…) để cây sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất và chất lượng cao, tăng cường khả năng chống chịu sâu bệnh hại. Hàng năm cần bón bổ sung 30- 40kg phân chuồng hoặc phân hữu cơ/cây kết hợp với bón phân hoá học. Cách bón: Đào rãnh sâu 25-30cm theo tán cây, bón rồi lấp đất lại và tưới nước.

+ Tỉa cành tạo tán: Sau khi trồng cây đã ổn định tiến hành cắt cành ngọn để tạo tán cho cây phát triển thành 3-4 cành cấp I theo 4 hướng, từ mỗi cành cấp I lại để 3-4 cành cấp II… Các cành vượt cũng thường xuyên cắt tỉa (chú ý cắt sát thân cành để tạo mô sẹo). Cành mang quả nhiều cũng cần tỉa quả để quả phát triển đồng đều.

+ Tưới nước: Sau khi trồng nên tưới nước 2-3 lần nếu trời không mưa để tạo điều kiện cho rễ phát triển. Những nơi có hệ thống tưới cần chú ý tưới cho cây ở thời kỳ phát lộc hoặc sau các đợt bón phân.

– Chống tái nhiễm bệnh: Thường xuyên thăm vườn, cắt cành hoặc chặt bỏ cành, cây có triệu chứng bệnh greening và các bệnh virus khác. Phun thuốc trừ sâu nội hấp khi phát hiện rầy chổng cánh (Diaphorina citri) môi giới truyền bệnh greening và rệp aphid môi giới truyền bệnh Tristeza (chú ý các đợt lộc).

5. Phòng trừ tổng hợp các loại sâu bệnh: Trong vườn cây có múi nhiều loại sâu bệnh khác như: sâu đục thân, sâu vẽ bùa, nhện, bệnh loét, bệnh chảy gôm… Các loại sâu bệnh này chỉ có thể phòng trừ có hiệu quả bằng việc áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp.

5.1. Sâu hại

Sâu vẽ bùa (Phyllosnis Citrella): Phá hoại chủ yếu ở thời kỳ vườn ươm và cây nhỏ 3-4 năm đầu mới trồng. Trên cây lớn thường phá hoại vào thời kỳ lộc non, nhất là đợt lộc xuân. Dù ở thời kỳ nào của cây cam, sâu chỉ đẻ trứng và phá trên các búp non. Sâu non nở ra ăn lớp biểu bì trên lá, tạo thành những vết ngoằn ngèo,có phủ sáp trắng,lá xoăn lại , cuối đường cong vẽ trên mặt lá có sâu non bằng đầu kim. Sâu phá hoại mạnh ở tất cả các tháng trong năm (mạnh nhất là từ tháng 2 tới tháng 10).

Phun thuốc phòng 1-2 lần trong mỗi đợt cây có lộc non là hiệu quả nhất (lúc lá non dài1-2 cm)

Dùng thuốc Trebon hoặc Sherpa pha với nồng độ 1/1000 – 1,5/1000. Khi xuất hiện sâu trừ diệt bằng một trong hai loại thuốc trên nhưng cần pha thêm dầu Cantect để phun trừ thì diệt sâu mới có hiệu quả. Phun ướt hết mặt lá.

Sâu đục thân (Chelidonium argentatum), đục cành (Nadezhdiella cantori) xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 9.

– Đặc điểm gây hại:

Sâu trưởng thành đẻ trứng vào các kẽ nứt trên thân, cành chính. Sâu non nở ra đục vào phần gỗ tạo ra các lỗ đục, trên vết đục xuất hiện lớp phân mùn cưa đùn ra.

– Phòng trừ:

+ Bắt diệt sâu trưởng thành (Xén tóc) + Phát hiện sớm vết đục, dùng dây thép nhỏ luồn vào lỗ đục để bắt sâu non + Sau thu hoạch (tháng 11 – 12) quét vôi vào gốc cây để diệt trứng + Bơm các loại thuốc xông hơi như Ofatox 400 EC 0,1%; Supracide 40ND 0,2% vào các vết đục, sau sau đó dùng đất dẻo bít miệng lỗ lại để diệt sâu. sâu đục thân đục cành thường đẻ trứng ở các kẽ nứt của vở ở phần thân cây và gốc cây, vì vậy vào tháng 11- 12 thường dùng vôi quét vào gốc cây sẽ có tác dụng làm nấp những kẽ nứt ở vỏ cây không cho sâu có chỗ đẻ trứng và tiêu diệt (làm bị ung những trứng sâu đã đẻ trong kẽ nứt) Nhện đỏ (Paratetranychus Citri): Phát sinh quanh năm hại lá chính, chủ yếu vào vụ đông xuân.

Nhện đỏ rất nhỏ, thường tụ tập thành những đám nhỏ ở dưới mặt lá, hút dịch lá làm cho lá bị héo đi. Trên lá nơi nhện tụ tập thường nhìn thấy những vùng tròn bị bạc hơn so với chỗ lá không có nhện, hơi phồng lên nhăn nheo. Những cây cam quýt hoặc vườn cam quýt gần nương chè thường hay có nhện đỏ phá hoại.

Nhện trắng (Phyllocoptes oleivorus) phát sinh chủ yếu trong thời kỳ khô hạn kéo dài và ít ánh sáng (trời âm u hoặc cây bị che bởi các cây khác). Nhện trắng là nguyên nhân chủ yếu gây ra rám quả, các vết màu vàng sáng ở dưới mặt lá.

Để chống nhện trắng và nhện đỏ, dùng thuốc Monocrophos 56% để phun với nồng độ 1- 2% (tức 10- 20 ml thuốc/10 lít nước), hoặc dùng thuốc Methamidophos 600 dạng nước pha nồng độ 1- 2% để phun. Nếu không có 2 loại thuốc trên thì dùng Kentan (thuốc vẫn dùng cho chè) pha nồng độ 1- 2/1000. Cần phun ướt cả mặt dưới lá và phun lúc cây đang ra lộc non để phòng. Nếu đã bị phá hại phải phun liên tục mỗi lần cách nhau 5- 7 ngày.

Rệp cam: chủ yếu hại các lá non cành non. Lá bị xoán rộp lên, rệp tiết nước nhờn khiến lá bị muội đen.

Rệp sáp: trên mình phủ 1 lớp bông hoặc sáp màu trắng hình gậy, hình vảy ốc, có thể màu hồng hoặc màu xám nâu. Cam ở gần ruộng mía thường hay bị rệp từ mía lan sang.

Dùng Trebon, Sherpa pha với nồng đọ 1- 2/1000 phun 1- 2 lần vào thời kỳ lá non. Khi xuất hiện rệp, muốn điều trị có hiệu quả cần pha thêm một ít xà phòng để có tác dụng phá lớp sáp phủ trên người rệp làm cho thuôc dễ thấm.

Ruồi vàng hại quả

Ruồi trưởng thành đẻ trứng vào vỏ quả, sâu non nở thành dòi đục vào trong quả làm thối quả. Khi trứng chưa nở ngoài vỏ quả cam chỉ thấy một vết châm rất nhỏ, nhưng khi trứng nở thành dòi vết châm bị thâm nâu và lan rộng, ấn tay vào thấy nước cam phòi ra, bên trong quả đã rất nhiêu dòi. Dùng bả gồm Methyl Eugenol 90 – 95% + 5 -10% Nalet. 2ml cho một bả, mỗi bả dùng cho 50 cây, đánh liên tục 10 – 12 lần trong mùa quả chín. Phun Sherpa, Trebon 1 – 2/1000 cho vườn cây 3 – 4 lần, cách nhau 5 -7 ngày.

5.2. Bệnh hại

5.2.1. Các bệnh do nấm * Bệnh loét cam quýt (Xanthomonas Citri) và bệnh sẹo (Ensinoe Faucetti Jenk) gây hại chủ yếu ở thời kỳ vườn ươm và cây mới trồng 1-3 năm. Trên lá thấy xuất hiện các bệnh màu nâu, có thể lốm đốm hoặc dầy đặc trên mặt lá, hình tròn, bề mặt vết bệnh sần sùi gồ ghề. Nếu bệnh xuất hiện trên cành sẽ nhìn thấy các đám sần sùi giống như ghẻ nở có màu vàng hoặc màu nâu. Cành bị nhiều vết bệnh sẽ khô và chết.

Trị bệnh loét sẹo bằng cách phun boocđô 1-2% hoặc thuốc Kasuran 1/1000.

Cách pha thuốc boocđô cho bình 10 lít:

– Dùng 0,1 kg sunfat đồng + 0,2 kg vôi tôi (nồng độ 1%) – Lấy 7 lít nước pha với đồng sunfat đánh cho tan đều pha với 3 lít nước đã pha với vôi, lọc bỏ cặn bã (làm như vậy để tránh kết tủa khi phun không bị tắc vòi phun)

* Bệnh chảy gôm (Phytophthora Citropthora): bệnh thường phát sinh ở phần gốc cây cam quýt cách mặt đất từ 20 – 30 cm trở xuống cổ rễ.

Giai đoạn đầu bệnh mới phát sinh thường vỏ cây bị những vết nứt và chảy nhựa (gôm). Bóc lớp vỏ ra ở phần gỗ bị hại có màu xám và có thể nhìn thấy sợi nâu hoặc đen chạy dọc theo thớ gỗ. Bệnh nặng lớp vỏ bị hại sẽ thối rữa và tuột khỏi thân cây, phần gỗ bên trong lớp vỏ hoá đen xám. Nếu tất cả xung quanh phần cổ rễ bị hại cây sẽ bị chết ngay, còn bị hại một phần thì lá bị vàng cây sinh trưởng kém. Bới sâu xuống đất có thể thấy nhiều rễ cũng bị thối. Những địa hình thoát nước kém cây dễ bị bệnh chảy gôm.

Cách phòng trị: dùng thuốc boocđô 1-2% để phun trên cây và đổ trực tiếp vào vết bệnh. Nếu cả rễ bị bệnh có thể đào lên loại bỏ rễ thối và xử lý thuốc. Ngoài ra có thể dùng thuốc Aliette hoặc thuốc benlat pha với nồng độ 2/1000 để xử lý các vết bệnh và phun trên lá.

6.2.2. Các bệnh do virus.

* Bệnh greening (Bệnh gân xanh lá vàng)

Tác nhân gây bệnh là một vi khuẩn sống trong tế bào, gram âm, phá hại chủ yếu các mạch libe ở các bộ phận còn non, rất phổ biến ở Đông Nam á.

Triệu chứng:

+ Trên cây nhỏ, cây lùn nhỏ, tán lá không đều, lá nhỏ đi. Lá biến vàng lốm đốm hoặc vàng lá gân xanh.

+ Trên cây lớn: Cũng giống như cây nhỏ nhưng chỉ xuất hiện trên một vài lá, một vài cành, bị nặng thì mới xuất hiện trên toàn cây. Bệnh lây truyền qua chiết ghép và môi giới truyền bệnh phòng trừ bệnh greening cũng như nhiều bệnh vi rút khác cần tiến hành theo 2 hướng: giảm số lượng côn trùng môi giới trong tự nhiên và dùng cây giống sạch bệnh. Để hạn chế bệnh Greening: Trồng xen ổi với mật độ 2 hàng cam Valencia, 1 hàng ổi có tác dụng rõ trong việc hạn chế sự xuất hiện của rày chổng cánh – đối tượng truyền bệnh nguy hiểm.

* Bệnh Tristeza

Triệu chứng giống như bệnh Greening, nhưng phần bị bệnh phá hại là gốc cây, cho nên khi cây bị bệnh thì toàn bộ lá trên cây đều bị vàng, giống như bệnh chảy gôm. Chỉ khác bệnh chảy gôm là lá cây bị bệnh tristeza chuyển màu vàng gần trong và bị biến dạng, sinh cành, còn cây bị bệnh chảy gôm thì lá chỉ bị vàng và không bị biến dạng.

Gốc cây bị bệnh, có thể bị những vết lõm, vỏ chỗ vết lõm bị nứt. Nếu bóc lớp vỏ ra thấy phần gỗ bên trong bị hoá bẩn (nhìn thấy một đám trắng xôm xốp). Nhìn kỹ thấy những mụn gỗ nhỏ li ti nổi lên đám gỗ hoá bần. Cây bị bệnh Tristeza chết rất nhanh, từ khi phát hiện thấy vàng lá chỉ trong vòng vài tuần hoặc một tháng cây có thể chết. Lịch phát sinh sâu bệnh hại thường thay đổi tuỳ thuộc vào điệu kiện cụ thể của từng năm. Cần theo dõi thường xuyện diễn biến sâu bệnh hại để có biện pháp phòng trừ kịp thời. 6. Thu hoạch và bảo quản

– Cần thu hoạch kịp thời để không ảnh hưởng tới phẩm chất quả. Khi quả có 1/3 – 1/2 vỏ quả chuyển màu là thu hoạch được. – Khi thu hái nên dung kéo cắt cuống quả, không làm xây xát vỏ quả, gãy cành. Phân loại trước khi cất giữ hoặc vận chuyển bán ngoài thị trường.

Quy Trình Kỹ Thuật Trồng Xen Ổi Trong Vườn Cam

I. Chuẩn bị đất trồng cho ổi và cam

Tùy theo địa hình đất (cao hay thấp, dễ hay khó thoát nước) mà lựa chọn phương pháp lên luống hay đắp ụ cho phù hợp.

Trồng cây chắn gió, thiết kế hàng rào bảo vệ, hệ thống thoát nước, hệ thống cung cấp nước tưới trước khi trồng cây.

1.2. Mật độ, khoảng cách:

Tùy theo khí hậu từng vùng, đất đai, kỹ thuật canh tác mà xác định khoảng cách trồng cho phù hợp, khoảng cách trồng thích hợp nhất cho cam và ổi là 4 x 4m. Trồng xen kẽ nhau, 1 hàng ổi trồng xen với 2 hàng cam.

+ Trồng ổi trước 6 tháng sau đó mới trồng cam (vụ Xuân trồng ổi, vụ Thu trồng cam hoặc ngược lại).

Đào hố trồng với kích thước: 0,6 x 0,6 x 0,6m. Khi đào, lớp đất mặt để riêng, lớp đất dưới trộn với phân chuồng, vôi bột, lân sau đó lấp hố cao hơn mặt đất 20 – 30cm.

Khi trồng, đào lỗ giữa mô, đặt bầu cây con xuống sao cho mặt bầu cao hơn mặt mô 3 – 5cm. Sau đó dùng đất vun tới mặt bầu rồi dận chặn, tưới nước.

Khi đặt cây phải cắm cọc cố định thân để cây khỏi bị tác hại của gió.

* Chăm sóc thời kỳ chưa mang quả

Những năm đầu cây còn nhỏ chưa giao tán phải làm sạch cỏ gốc. Ở những vùng đất bằng hoặc hơi dốc nên trồng cây phân xanh ở giữa các hàng cây để vừa che phủ đất giữ ẩm, chống cỏ dại, tạo nguồn phân xanh cải tạo đất và cung cấp dinh dưỡng cho cây.

Đối với đất dốc, giữa các hàng cam, ổi gieo 1 hàng rào kép cây phân xanh thuộc loại thân bụi như muồng, cốt khí, keo, đậu, lạc để chống xói mòn và cung cấp chất hữu cơ tại chỗ. Lượng hạt cây phân xanh từ 20-25kg/ha. Diện tích đất trống còn lại trên băng gieo các loại cây họ đậu thân thảo như cây đậu tương, cây lạc, lạc dại.. để che phủ, giữ ẩm đất và chống cỏ dại. Thường gieo trồng cây phân xanh trước khi trồng cam, ổi hoặc ngay sau khi trồng.

Khi cây đạt chiều cao 60 cm, bấm ngọn tạo cành cấp 1, để 03 cành cấp 1 hướng đều về các phía. Sau đó tạo cành cấp 2 và 3 tương tự để tán cây xòe đều không quá rậm rạp.

+ Liều lượng (tham khảo):

Loại phân Lượng phân bón (g/cây)

+ Thời kỳ bón: Bón phân thúc 4-5 lần/năm vào các tháng 2, 4, 6, 10 và tháng 12. Lượng phân chia đều trong các lần bón.

+ Phương pháp bón: Lúc cây còn nhỏ, phân vô cơ được hòa với nước để tưới cho cây kết hợp với các đợt xới xáo làm cỏ.

Khi cây lớn, rạch rãnh xung quanh tán, rãnh sâu khoảng 10 -15 cm, rắc phân vào rãnh rồi lấp đất lại. Mỗi lần bón phân đều phải kết hợp với làm cỏ, xới xáo gốc, tưới nước và tủ gốc cây.

Phân chuồng được bón với lượng 50 – 60kg/cây/năm đối với giai đoạn kiến thiết cơ bản, những năm sau đó bón tăng dần mỗi năm từ 10 đến 20 kg theo tuổi cây, bón 1 lần vào cuối năm. Khi bón phân chuồng, rãnh bón được cuốc sâu và rộng hơn, sâu từ 15 – 20 cm, rộng từ 20 – 30 cm.

* Chăm sóc thời kỳ kinh tế (thời kỳ cây mang qua)

Thường xuyên phát cỏ, tủ gốc để giữ ẩm. Bổ sung nước tưới để duy trì ẩm độ đất đạt từ 70-75% sau khi đậu quả và trong giai đoạn quả lớn.

+ Lượng bón (tham khảo): Vào thời kỳ kinh tế, lượng phân bón chủ yếu dựa vào năng suất vụ trước đó để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho cây.

Lượng phân bón được khuyến cáo sử dụng theo bảng sau:

+ Thời kỳ bón: Bón phân trong thời kỳ cây cho quả được chia làm 3 lần chính: bón sau thu hoạch quả, bón trước khi ra hoa và bón trong thời gian quả lớn. Lần bón thứ 3 có thể được chia thành 2 – 4 lần nhỏ, tùy điều kiện từng nơi. Lượng phân bón được áp dụng theo hướng dẫn trong bảng dưới.

* Bón sau thu hoạch: Rạch rãnh xung quanh tán (rộng 30 cm, sâu 20 cm), rắc phân (phân vô cơ và hữu cơ) vào rãnh rồi lấp đất kín.

* Bón thúc: bón theo rãnh, rãnh sâu 10 cm, rộng 15 cm, mỗi lần bón phân đều phải kết hợp với làm cỏ, xới xáo gốc, tưới nước và tủ gốc lại gốc cây.

Tiến hành cắt tỉa 3 lần trong năm, vào các đợt sau:

+ Đợt 1: Cắt tỉa sau thu quả. Cắt bỏ tất cả những cành trong tán, cành nhỏ, cành yếu, cành sâu bệnh, một số cành vượt, cành mọc đan xen nhau. Cắt tỉa kết hợp với vệ sinh đồng ruộng, đốt bỏ hết tàn dư sâu bệnh trên vườn.

+ Đợt 2: Cắt vào vụ xuân, thời điểm cây ra hoa đậu quả: cắt bỏ những cành yếu, cành có chùm hoa nhỏ, cành sâu bệnh, cành mọc trong tán.

+ Đợt 3: Cắt tỉa vào vụ hè, giai đoạn quả lớn: Cắt bỏ những cành sâu bệnh, tỉa bỏ quả nhỏ quả dị hình.

*Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citrella)

Là loại sâu ưa tán thấp, cây cao khoảng 1,5 m trở xuống. Ban đêm loại bướm này bay ra đẻ trứng vào chồi non lá non.

Phá hoại chủ yếu ở thời kỳ vườn ươm và cây nhỏ 3-4 năm đầu mới trồng. Trên cây lớn thường phá hoại vào thời kỳ lộc non, nhất là đợt lộc Xuân.

Sâu non nở ra ăn các lớp biểu bì trên lá, tạo thành các lớp ngoằn nghoèo, lá xoăn lại cuối đường cong vẽ trên mặt lá có sâu non bằng đầu kim. Sâu phá hoại mạnh ở tất cả các tháng trong năm, mạnh nhất từ tháng 2-10.

Khi bị sâu vẽ bùa gây hại, cây quang hợp kém, ảnh hưởng đến sức sinh trưởng đồng thời tạo ra những vết thương cơ giới, là cơ hội để bệnh loét xâm nhập.

Phun thuốc phòng 1-2 lần trong mỗi đợt cây có lộc non và hiệu quả nhất (lúc lộc non dài từ 1-2cm).

Khi chồi non 1 – 2 cm phun lần 1, sau 6, 7 ngày chồi non vẫn phát triển thì phun lần 2.

Dùng thuốc Polytrin, liều lượng : 25ml/10lít nước hoặc Selecron, Trebon pha nồng độ theo khuyến cáo của nhà sản xuất để phòng trừ. Phun ướt hết mặt lá.

*Rầy chổng cánh (Diaphorina citri)

Chúng chích hút lá non, đọt non, cành non là môi giới truyền bệnh vân vàng lá. Thời gian xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 11.

Biện pháp phòng trừ: Phun bằng thuốc Trebon 0,2%, Sherpa 0,2% khi xuất hiện hoặc cung tên 100g/16 lít nước.

* Nhện đỏ (Panonychus citri)

– Phát sinh quanh năm hại lá là chính, chủ yếu vào vụ Đông Xuân. Nhện đỏ rất nhỏ, màu đỏ thường tụ tập thành những đám nhỏ ở dưới mặt lá, hút dịch lá làm cho lá bị héo đi. Trên lá nơi nhện tụ tập thường nhìn trên mặt lá thấy những vòng tròn lá bị bạc hơn so với chỗ lá không có nhện và hơi phồng lên nhăn nheo. Những cây cam gần với nương chè thường hay có nhện đỏ phá hoại.

– Nếu có nhiều nhện đỏ lá cây bạc ra, cành lá non bị vàng. Khi cây đã cho quả ở thời kỳ quả non tháng 1, 2 nếu có nhện đỏ ăn vào phần vỏ quả sau này quả bị rám (màu xám đen).

– Để trừ nhện đỏ dùng thuốc: Comite 10ml/10lít nước; Furmite:12ml + 30ml dàu khoáng SK hoặc Ortus Pegasus pha nồng độ theo khuyến cáo của nhà sản xuất hoặc thuốc có chứa hoạt chất Abamectin kết hợp với dầu khoáng trừ sâu… phun ướt cả mặt lá dưới và phun lúc cây ra lộc non để phòng. Nếu đã bị nhện phá hại nặng phải phun liên tục 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày.

* Nhện trắng (Phyllocoptura oleivora)

– Phát sinh chủ yếu trong thời kỳ khô hạn kéo dài vài tháng( trời âm u hoặc cây bị che bóng bởi các cây khác). Nhện trắng là nguyên nhân chủ yếu gây ra rám quả, các vết màu xám trắng ở trên vỏ quả.

– Nhện trắng làm lá non và búp non chùn lại

– Để trừ nhện trắng dùng thuốc: Polytrin : 25ml/10lít nước

hoặc Ortus, Pegasus, Comite hoặc dầu khoáng trừ sâu… pha nồng độ theo khuyến cáo của nhà sản xuất phun ướt cả mặt lá dưới và phun lúc cây ra lộc non để phòng. Nếu đã bị nhện phá hại phải phun liên tục 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày.

– Có thể dùng thuốc Suprasite 20ml/10l nước.

* Sâu đục thân (Chelidonium argentanum),

Do xén tốc hoa từ tháng 4 đến tháng 9 vũ hóa bay ra đẻ trứng vào gốc cây, thân cây, sâu nở ăn thẳng vào vỏ cây

– Thời gian xuất hiện từ tháng 5-8-9.

+ Dùng thuốc Supracide hoặc Ofatox nồng độ 1-1,5/1000 bơm vào lỗ đục của cây sau đó dùng đất sét bịt miệng lỗ lại. Kết hợp phun các loại thuốc lên trên cây để diệt trứng.

Chú ý: sâu đục thân thường đẻ trứng ở các kẽ nứt của vỏ ở phần thân cây và gốc cây, vì vậy vào tháng 11-12 người ta thường dùng hỗn hợp: 10kg bùn ao + 01 kg Basudin + 05 kg phân trâu+ 20 lít nước sạch, khuấy đều thành dung dịch đắc sệt rồi quét từ gốc cây lên đến cành cấp 1 vào tháng 4 và tháng 8 hàng năm sẽ có tác dụng: một là lấp các kẽ nứt ở vỏ cây làm cho sâu không có chỗ đẻ trứng, hai là nếu sâu đẻ trứng thì hỗn hợp thuốc sẽ làm cho trứng bị ung không nở thành sâu non để phá hại được.

* Sâu đục cành (Nadezhdiella cantori).

Từ tháng 4 đến tháng 9 xén tốc đen, xén tóc nâu vũ hóa bay ra đẻ trứng và kẽ lá cành non và bịt lên 1 lớp sáp (tránh mưa, nắng).

Khi sâu non nở ăn lên phần ngọn non làm cành lá non bị héo vài ngày sau sâu to răng khỏe ăn dần xuống cành to.

Nắm được quy luật này về mùa mưa 2 – 3 ngày 1 lần đi kiểm tra quang tán cây nếu cành héo bẻ bỏ đi để tránh sâu ăn xuống.

Nếu nỡ để sâu ăn xuống khoảng 8 – 10 cm, sâu tạo lỗ để đùn phân ra.

Cách trị: dùng tốc mây hoặc dây thép để lấy xác sâu ra hoặc xịt thuốc nồng độ cao vào lỗ có sâu.

*Ruồi vàng: Bactrocera dorsalis

Ruồi vàng (nhỏ hơn con ruồi thường) màu vàng, xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 10 trong năm.

Ruồi vàng chích hút bí, mướp. Đến tháng 8, 9 chích sang cam, bưởi .

Thuốc dùng: Đánh bả protein rất đơn giản, nếu sử dụng để diệt ruồi đực, tẩm 2ml hợp chất dẫn dụ (ME hoặc CuE + 20% thuốc trừ sâu) vào bẫy. Treo bẫy lên cây nơi râm mát ở độ cao 1,5-2m. Mỗi ha treo 20- 30 bẫy, cứ sáu tuần thay bả một lần. Còn nếu dùng bả để phun phòng thì chỉ cần pha 50ml bả protein + 10ml Pyrinex 20EC + 0,95 lít nước để trừ. Khi phun cần phun theo điểm đối với cây ăn quả, mỗi điểm phun 50ml hỗn hợp tương ứng 1m2/cây) vào dưới tán lá, phun định kỳ 5- 7 ngày/lần.

Thuốc diệt ruồi vàng đục trái Vizibon D: Hộp nhỏ chứa 2 chai thuốc gồm 1 chai lớn(chất dẫn dụ ruồi) và 1 chai nhỏ(chất diệt ruồi). khi sử dụng mở nắp 2 chai thuốc. Đổ hết thuốc diệt ruồi vào chai chất dẫn dụ, đậy nắp kín, lắc đều. Sau đó tẫm khoảng 1ml hỗn hợp thuốc đã trộn vào bẫy, treo lên cây. Treo từ 2-3 bẫy cho mỗi 1000m2. Sau 20 ngày treo, đỗ hết xác ruồi chết, tẫm thuốc mới vào bẫy, tiếp tục treo lên cây.

Chú ý: Thuốc đã hỗn hợp nếu không dung hết, đậy nắp kín, để nơi thoáng mát và có thể sử dụng trong vòng 6 tháng

Thời gian cách ly: Ngưng thuốc 4 ngày

* Bệnh loét (Xanthomonas campestris)

– Triệu chứng bệnh: Gây hại nặng tất cả thời kỳ trồng cây cam nếu không được phòng chống tốt. Trên lá xuất hiện các vết bệnh màu nâu, có thể lốm đốm hoặc dày đặc trên mặt lá, hình tròn, bề mặt vết bệnh sần sùi, gồ ghề. Nếu bệnh xuất hiện trên cành thì sẽ nhìn thấy các đám sần sùi như ghẻ lở, màu vàng hoặc nâu. Cành bị nhiều vết bệnh sẽ bị khô và chết, Thời kỳ mang quả bệnh tấn công từ lúc quả còn nhỏ đến khi quả lớn, bệnh nặng làm rụng quả. Năm nào mưa nhiều kèm thời tiết nóng ẩm bệnh phát mạnh thành dịch.

– Trị bệnh loét bằng cách phun boocdo 1% hoặc Kasuran: 0,2%, Koside: 35g/10 lít nước, Oxyclorua Đồng.

– Thuốc phòng là chính.

– Thuốc hiệu quả nhất là boocdo, 15g suphatdong +20g vôi tôi/12lít nước

Phải pha đúng cách với thành boocdo

15gđồng đổ vào 1 thùng 9 lít nước quấy đều cho hoà tan hết.

20g vôi tôi đổ vào 1 thùng 3lít nước hoà tan hết.

Dùng dung dịch đồng đổ vào nước vôi vừa đổ vừa quấy đều với thành boocdo màu xanh da trời, không bị lắng cặn.

Cách thử: nếu nhúng dao mài sắc vào boocdo lưỡi dao màu xỉn xám là pha chuẩn, nếu lưỡi dao màu han gỉ vàng là pha không đúng.

( Nếu pha không đúng gây hại cho cây và không phòng được bệnh).

Nếu thời tiết có độ ẩm cao, mưa nhiều, trời âm u thiếu ánh nắng bệnh nấm phấn trắng phát triển có thể thành dịch, nếu không phòng trừ kịp thời:

– Triệu chứng: Trên lá xuất hiện những đám như bụi phấn màu trắng ở cả mặt trên và dưới lá. Bệnh này lây lan rất nhanh phải phòng trị kịp thời

– Dùng thuốc Anvin 1 hộp/ 100lit nước. Phun kép 2 lần cách nhau 5 ngày, phun ướt cả mặt trên và mặt dưới lá

*Bệnh sẹo (Elsinoe fawcetti Bit. Et Jenk)

– Triệu chứng: Lá và quả có những nốt nổi gồ ghề màu nâu, thường gây hại lá và quả lúc còn nhỏ

– Thuốc dùng: Boocdo phun phòng như ở phần bệnh loét hoặc Kocide 30g/10 lít nước.

* Bệnh chảy gôm (Phytophthora sp )

– Triệu trứng và tác hại của bệnh: Bệnh thường phát sinh ở phần gốc cây, cách mặt đất khoảng 20-30cm trở xuống cổ rễ và phần rễ. Giai đoạn đầu bệnh mới phát sinh thường vỏ cây bị nứt và chảy nhựa( chảy gôm). Bóc lớp vỏ ra, ở phần gỗ bị hại có màu xám và nhìn thấy những mạch sợi đen hoặc nâu chạy dọc theo thớ gỗ.

Bệnh hại nặng, lớp vỏ ngoài thối rữa (giống như bị luộc nước sôi) và rất dễ bị tuột khỏi thân cây, phần gỗ bên trong có màu đen xám. Nếu tất cả xung quanh phần cổ rễ bị hại, cây có thể bị chết ngay, nếu bị một phần thì cây bị vàng úa, sinh trưởng kém, bới sâu xuống dưới có thể thấy nhiều rễ cũng bị thối

+ Đối với vết hại cục bộ phần thân gốc: Cạo sạch vết bệnh, dùng thuốc Aliette nồng độ 0,5% quét vào vết bệnh.

+ Đối với những cây có biểu hiện triệu trứng nhẹ cần phun Aliette nồng độ 0,3% lên toàn bộ cây, thuốc Aliette có tác dụng lưu dẫn trong nhựa cây để diệt nấm Phytophthora sp

+ Chú ý đào rãnh thoát nước tốt cho vườn cây, tránh tình trạng gây úng cục bộ.

* Các bệnh do virus và siêu vi khuẩn không thể chữa trị bằng các loại thuốc hoá học như một số loại bệnh khác mà phải phòng trị bằng các biện kỹ thuật tổng hợp, bắt đầu từ khâu nhân giống sạch bệnh tới các kỹ thuật canh tác, vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ môi giới truyền bệnh…vv

Bệnh virus phổ biến đối với cây có múi là bệnh Greening, Tristeza. Khi phát hiện cây bị bệnh, tốt nhất là chặt bỏ những cây bị bệnh để tránh lây lan sang cây khác.

Đây là bệnh nguy hiểm gây hại quan trọng nhất trên cây có múi. Bệnh lan truyền chủ yếu do giống đã bị nhiễm. Đặc biệt bệnh lan truyền nhanh do môi giới truyên fbệnh là rầy chổng cánh

Triệu chứng: Triệu chứng điển hình là lá bị vàng có đốm xanh, lá vàng có những gân xanh, lưng lá bị sưng và hoá bẩn, khô, những lá mới nhỏ lại mọc thẳng đứng và có màu vàng. Cây thường ra hoa nhiều và ra quả trái vụ nhưng rất dễ rụng, quả nhỏ, quả bị lệch tâm, tép nhỏ, 1số hạt bị thui đen. Cây bị bệnh hệ thống rễ thối nhiều. Giám định bằng triệu chứng phải kết hợp nhiều triệu chứng lại với nhau mới chính xác.

+Trồng cây giống sạch bệnh

+Không nên trồng cây có múi vào vùng có áp lực bệnh quá cao.

+Phun thuốc trừ rầy chổng cánh

+Không nên trồng cây nguyệt quế trong vườn vì rầy chổng cánh rất thích đẻ trứng và chích hút cây này.

II. Đối với cây ổi xá lỵ không hạt ruột trắng

+ Tiêu chuẩn cây con:Trồng bằng cây ghép mắt hoặc cành chiết, chiều cao cây giống đạt 50 – 70 cm, trồng trong túi bầu Polyme màu đen, cây không bị sâu bệnh hại.

– Tưới nước: Tưới ngay sau khi trồng, phải tưới thường xuyên vào mùa nắng. Tưới nước vào lúc cây đang mang trái giúp gia tăng năng suất và kích thước trái.

– Che phủ gốc: Hàng năm nên đắp thêm đất hay bùn ao vào gốc ổi. Vào mùa nắng nên phủ cỏ khô hay rơm rạ vào gốc để giữ ẩm.

– Tỉa cành và xử lý ra hoa ổi

Tỉa cành: Để tỉa cho bằng nhau giữa các cây ổi, người ta cắm một cây đo làm chuẩn và dùng kéo cắt đọt ngang với chiều cao cây đó.

Chiều cao cây 3 – 4 năm tuổi cao: 1,5 m; 5 – 6 năm tuổi cao: 1,6 – 1,7 m; 7 – 8 năm tuổi cao: 2 m

Trường hợp nhánh ổi chưa ra hoa, dùng kéo bấm bỏ đọt sao cho trên nhánh đó chỉ còn mang ba cặp lá kép.

Đối với nhánh ổi đã ra hoa, nếu thấy mới chỉ có một cặp hoa (nụ) thì bấm bỏ đọt nhưng chừa phía trên cặp hoa đó một cặp lá để có thể ra thêm một cặp nụ mới từ cặp lá đó.

Sau khi trên nhánh ổi có đủ hai cặp nụ thì cắt bỏ đọt hết, không chừa cặp lá nào phía trên cặp nụ trên cùng nữa để nhánh ổi có thể tập trung dinh dưỡng nuôi quả.

Việc bấm đọt được tiến hành thường xuyên 1-2 tuần/lần.

Cây ổi tăng trưởng nhanh, ra hoa và trái liên tục nên đòi hỏi nhiều chất dinh dưỡng. Chất đạm và lân cần thiết cho cây phát triển tốt, ra nhánh, ra hoa và trái phát triển. Khi mang trái, cần nhiều Kali để tăng phẩm chất trái.

Cây ổi sẽ được cung cấp phân liên tục từ khi trồng đến khi cho trái. Lượng phân bón cung cấp sẽ gia tăng dần khi cây lớn.

Phân được rãi cách gốc 30cm, bón ở ngoài sâu, trong hơi cạn khi vùi phân vào đất.

Các dạng phân bón và liều lượng (tham khảo)

Hàng năm nên bón thêm phân hữu cơ hoai mục 5 – 10kg/cây. Có thể sử dụng các loại phân chuồng đã được ủ cho hoai mục hoặc dùng các loại phân hữu cơ, hữu cơ vi sinh đã qua quá trình chế biến công nghiệp

Rầy đeo bám ở đọt non và mặt dưới lá, chích hút nhựa làm quắn đọt, chồi tăng trưởng kém, tạo điều kiện để nấm bồ hóng phát triển.

Cách phòng trị: Phun Bassa 50ND, Trebon 10EC, Applaud 10WP, Sevin 85WP nồng độ 0,1-0,2%.

* Rệp dính, rệp sáp, rệp phấn trắng

Đeo trên thân, dọc theo gân chính ở mặt d¬ới lá chích hút nhựa làm khô lá, giảm kích thước trái.

Cách phòng trị: Bi 58 40 EC, Suppracide 40 ND, Confidor 100 SL, Admire 50 EC nồng độ 0,1-0,2%. Nên kết hợp với chất dính ST 0,1%.

* Ruồi đục trái (Dacus dorsalis)

Thành trùng đẻ trứng bên trong trái, trứng nở thành giò ăn phá thịt trái và làm thối trái. Thành trùng dễ bị quyến rũ bởi chất chua ngọt nên có thể bẫy bắt bằng bã mồi. Thường xuất hiện trên ổi trong mùa mư¬a.

Cách phòng trị: Biện pháp có hiệu quả cao là đặt bẫy. Dùng chất Methyl Eugenol để bẫy ruồi. Hiệu quả cao nếu bẫy màu vàng. Tuy nhiên, hơn 95% ruồi vào bẫy chết là ruồi đực, trong lúc ruồi cái vẫn tiếp tục đẻ trứng ở các cây kế cận. Tránh kéo dài mùa thu hoạch ổi. Nhặt bỏ trái rụng, vệ sinh vườn hạn chế ruồi làm nhộng trong đất.

* Sâu đục cành (Zeuzera coffeae)

Sâu non có màu hồng, đục vào bên trong cành nhất là những cành mọc thẳng đứng, đùn phân và mạt gỗ ra ngoài, thường gặp một sâu phá hại một cành. Sâu làm nhộng bên trong cành. Cành bị chết khô và gãy.

* Bệnh thán thư (anthracnose, do Gloesporium psidii và Glomerella psidii)

Nấm tấn công trên cành, lá, hoa và trái. Triệu chứng bệnh thay đổi tùy điều kiện môi trường.

Triệu chứng trên trái thường dễ gặp, nhất là vào mùa mư¬a. Bệnh làm thành những chấm nhỏ, màu hồng trên trái ch¬a chín, mầm bệnh tồn tại ở trạng thái ngủ suốt trong thời gian trái phát triển và bắt đầu lan rộng thành những đốm tròn, màu nâu đen khi trái chín, trung tâm vết bệnh còn nổi rõ những hạch cứng, trái bệnh nhỏ, cứng, khô và dễ rụng.

Triệu chứng chết đọt cũng thường xảy ra. Chồi và lá non có thể bị nấm tấn công, chồi ngọn trở nên hơi tím, sau đó thành nâu đen, khô giòn và dễ gãy.

Cách phòng trị: Phun Dithane M-45 (Mancozeb 80 WP, Pencozeb 80 WP, Manzate 80 WP), Bayfidan 25 EC, Antracol 70 WP, Ridomil 72 WP nồng độ 0,1-0,2%.

Do nấm Cercospora psidii gây ra. Nấm gây những đốm bệnh tròn, tâm màu nâu nhạt, chung quanh màu nâu đậm. Bệnh làm giảm diện tích lá xanh và làm rụng lá.

Cách phòng trị: Phun Copper-B 65 BHN, Mancozeb 80 WP, Score 250 EC nồng độ 0,1-0,2%.

Nhằm hạn chế sâu bệnh tấn công, nên tiến hành bao trái khi trái non có đường kính khoảng 2,5 – 3 cm; vật liệu bao trái phổ biến hiện nay là dùng bao nilon đã được đục lổ để bao. Những trái được bao lại sẽ có vỏ trái bóng đẹp hơn và dễ tiêu thụ hơn so với những trái ổi không được bao trái.

Đối với quả cam: Tiến hành thu hoặc khi quả chuyển màu vàng. Quả được thu hoạch vào lúc trời khô ráo, không nên thu trái ngay sau mưa hoặc vào những ngày mù sương vì quả dễ bị ẩm thối. Quả thu xong cần để nơi thoáng mát, không nên tồn trữ quá 15 ngày kể từ khi thu hoạh sẽ làm giảm giá trị thương phẩm quả.

Đối với cây ổi: Thời gian thu hoạch ổi tập trung từ tháng 9 đến Tết Nguyên Đán. Tuy nhiên, có những vườn ổi xử lý ra hoa cho trái liên tục quanh năm. Ổi thường được thu hoạch vào buổi sáng, cắt bằng kéo, trái được bao và còn cuống dính lá ở trên thì khi bán sẽ được giá hơn.

Quy Trình Kỹ Thuật Bón Phân Cho Cây Cam

Hôm nay chúng tôi xin giới thiệu cho bà con quy trình kỳ thuật chung để bón phân cho cây cam các loại giúp bà con tăng năng suất, giảm công sức về lâu dài.

Cây cam là một loại cây trồng chủ lực ở các tỉnh phía Bắc, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và đời sống cho đại bộ phận người nông dân. Hiện nay có rất nhiều loại cam đặc sản cho hiệu quả kinh tế cao như : Cam Cao Phong, Xã Đoài, cam Vinh….. Nhưng để đạt được hiệu quả kinh tế ngoài chất lượng giống và điều kiện tự nhiên thì quy trình chăm sóc cũng như cách thức bón phân cũng cần được chú trọng. Theo nhu cầu thị trường hiện nay, thì xu hướng sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ đang được đẩy mạnh. Vì thế nên các loại phân bón hữu cơ sinh học được sản xuất và đưa vào sử dụng ngày càng nhiều. Hôm nay chúng tôi xin giới thiệu cho bà con quy trình kỳ thuật bón phân cho cây cam bằng phân bón hữu cơ sinh học Eco Nutrients.

Nhiệt độ: Cây cam có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới nóng ẩm nên chúng thích hợp với khí hậu ấm, tuy nhiên chúng lại có phạm vi phân bố rộng, một số giống cam có thể sinh trưởng ở nhiệt độ thấp. Cây cam sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 23 – 29 độ C. Ở nước ta trừ một số vùng có sương muối kéo dài, thì các vùng khác có thể phù hợp với việc trồng cây cam.

Ánh sáng: cây cam quýt thích hợp với cường độ ánh sáng từ 10.000 – 15.000 lux, cam quýt không ưa ánh sáng trực xạ, ưu ánh sáng tán xạ. Nhưng không nên trồng cây cam ở dưới những cây to vì sâu bệnh có thể gây hại cho trái cam. Chúng ta nên trồng cây ở mật độ hợp lý, nơi thoáng mát và tránh ánh nắng mặt trời. Các giống khác nhau có yêu cầu về ánh sáng khác nhau.

Nước : Cam, quýt là giống cây có đặc tính ưa ẩm và chịu hạn kém. Chúng có nhu cầu nước cao ở những giai đoạn: nảy mâm, phân hóa mầm hoa, tạo quả và phát triển quả. Nhưng chúng lại là loại cây chịu úng kém. Ở những nơi có lượng mưa 1500 – 2000mm/ năm rất thích hợp trồng cây cam, quýt.

Thổ nhưỡng và chất dinh dưỡng :

Thổ nhưỡng: Cây cam thích hợp với vùng đất có nhiều mùn, khả năng thấm nước và thoát nước tốt, có tầng đất dày, giữ ẩm tốt. Không nên trồng cam ở nơi có đất sét nặng, đất cát già hoặc tầng đất mỏng. Độ pH của đất thích hợp trồng cam là từ 5.5 – 6 . Những nơi có pH thấp thì nên bón phân để nâng độ pH lên.

Nhu cầu dinh dưỡng: Để cây phát triển tốt cũng như các loài cây khác, cây câm cũng cần được cung cấp cân đối và đầy đủ các nguyên tố đa lượng NPK và các nguyên tố vi lượng như Ca, Mg….

+ Đạm: là nguyên tố đa lượng quyết định đến năng suất và phẩm chất quả. Đạm đảy mạnh sự phát triển của thân, lá, cành và hình thành lộc mới. Tuy nhiên nhiều đạm quá lại ảnh hưởng không tốt đến chất lượng quả như quả to, vỏ dày, hàm lượng vitamin C có trong quả thấp….. Thiếu đạm đẫn đến suy giảm diệp lục ở lá, lá dễ rụng, nhánh dễ chết khô, quả nhỏ, mỏng vỏ. Cây cam hấp thụ đạm nhiều nhất từ tháng 2 đến tháng 12. + Phân lân: rất cần trong việc phân hóa mầm hoa. Thiếu phân lân thân cây sinh trưởng kém, lá rụng nhiều, rẽ kém phát triển. Phân Lân có tác dụng làm giảm hàm lương acid trong quả, nâng cao tỉ lệ đường/acid , quả sẽ ngon hơn. + Kali: nguyên tố này cần thiết cho quá trình tạo quả của cây cam. Chất lượng quả phụ thuộc chủ yếu vào nguyên tố này. Cây được cung cấp đầy đủ kali thì có quả to,ngọt và cất giữ được lâu trong quá trình vận chuyển. Nhưng nếu bón thừa kali thì cành lá sinh trưởng chậm, cây kém phát triển. Nếu trong đất chứa nhiều hàm lượng Kali sẽ ngăn cản quá trình hấp thu Ca, Mg, làm quả to nhưng hình thức không đẹp. + Magie: đây không phải là chất đa lượng nhưng nguyên tố này lại ảnh hưởng rất lớn đến năng suất cây có múi, trong đó có cây cam. Tùy thuộc vào từng loại thổ nhưỡng, mức độ thiếu hụt, dư thừa các nguyên tố mà ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và chất lượng quả. Bón phân đầy đủ và đúng quy trình sẽ giúp phần nâng cao năng suất hiệu quả kinh tế cây trồng.

Quy trình sử dụng phân bón hữu cơ sinh học Eco – Nutrients.

Dùng để làm đất tơi xốp : Kết hợp 1000 ml Eco – Hydro Fish và 2 kg Eco – Fish Bloom hòa vào 600 lít nước để phun ẩm đất. Các lần phun cách nhau từ 3 – 5 ngày, trung bình khoảng 4 lít / cây, phun 3 lần đất sẽ trở nên mềm và tơi xốp hơn. Trong quá trình phun bà con nên cày xới để đất tơi xốp hơn.

Mật độ trồng cây:

Dùng Eco – Nutrients để xử lý đất trước khi trồng.

+ Đối với các cây ghép gốc gieo hạt là 300 – 500 cây/ ha. Khoảng các giữa các cây và hàng là 4x5m. + Đối với các loại cây chiết ghép có thể trồng với mật độ lớn hơn khoảng 800 – 1200 cây/ ha. Và khoảng cách 4 x2m, hoặc 3x3m, 3x4m. + Ở các tỉnh miền Tây người ta thường đắp thành từng gò cao để trồng. Gò có kích thước 60 – 80 cm và cao 20 – 30 cm.

Thời kỳ nuôi cây đến khi trưởng thành

Sử dụng phân bón hữu cơ sinh học Eco Nutrients để bón và chăm sóc cây sau khi trồng.

Mạnh Quân

Xin chào tôi là Mạnh Quân giám đốc Sacotec , chúng tôi đang tập trung vào mảng chăn nuôi, trồng trọt theo hướng hữu cơ sinh học, xu hướng phát triển tất yếu hiện nay. Đi kèm đó là việc phân phối cực kỳ đa dạng các sản phẩm hữu cơ trong và ngoài nước với giá tốt nhất như phân tảo bón lá, phân gà vi sinh, phân đạm cá, chế phẩm sinh học… Xem tất cả bài viết của Mạnh Quân →

Trồng Cam Theo Quy Trình Vietgap

VietGAP là gì?

Đối với sản phẩm trồng trọt, từ năm 2008 đến nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành các Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) cho rau, quả tươi; chè búp tươi, lúa và cà phê.

VietGAP là những nguyên tắc, trình tự, thủ tục hướng dẫn tổ chức, cá nhân sản xuất, thu hoạch, sơ chế đảm bảo sản phẩm an toàn, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo phúc lợi xã hội, sức khoẻ người sản xuất và người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và truy nguyên nguồn gốc sản phẩm.

VietGAP là một tiêu chuẩn tự nguyện nhằm hướng dẫn nhà sản xuất nâng cao chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm trên cơ sở kiểm soát các mối nguy.

VIETGAP (là cụm từ viết tắt của: Vietnamese Good Agricultural Practices) có nghĩa là Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam trên cơ sở 4 nhóm tiêu chí:

Đảm bảo an toàn thực phẩm

Bảo vệ môi trường

Bảo đảm sức khỏe cho người lao động và phúc lợi xã hội

Bảo đảm chất lượng sản phẩm

Để được cấp Giấy chứng nhận VietGAP, người sản xuất cần nghiên cứu và áp dụng quy trình VietGAP theo đối tượng cây trồng dự kiến sản xuất, sau đó hãy tự kiểm tra, đánh giá các chỉ tiêu theo VietGAP có đạt hay không. Tiếp đến hãy liên hệ với các tổ chức chứng nhận VietGAP được Cục trồng trọt chỉ định trong mục “Tổ chức chứng nhận VietGAP” ​để được hướng dẫn đăng ký chứng nhận.

Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP cho rau quả tươi an toàn

các bạn có thể xem bản đầy đủ ( file PDF ) công văn hướng dẫn thực hành Vietgap của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Tại đây:

Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP cho rau quả tươi an toàn

Mời các bạn xem quy trình trồng cam Vietgap do đài TH Bình Dương thực hiện:

Trồng cam VietGAP

Cây cam sành Hà Giang không chỉ “gánh trên vai” trọng trách xóa đói, giảm nghèo mà đã từng trở thành loại cây làm giàu cho không ít thôn bản các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Quang Bình… Tuy nhiên, tốc độ và quy mô phát triển còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng. Năm 2008, tỉnh Hà Giang có 4.000 ha cam, diện tích trên bị giảm xuống còn 1.200 ha vào năm 2012.

Nguyên nhân được đưa ra là do nhiều diện tích cam bị nhiễm bệnh vàng lá greening và một phần diện tích cam bị già cỗi, suy kiệt dinh dưỡng vì chưa được chăm sóc thường xuyên, chưa bón phân bổ sung hàng năm nên cây sinh trưởng, phát triển kém, rất ít quả, quả bé và kém chất lượng. Mặt khác, chưa có sự đồng bộ, thống nhất từ khâu SX đến sơ chế, tiêu thụ.

SX cam VietGAP nâng cao giá trị sản phẩm và thu nhập Sau khi chọn địa điểm, chọn hộ tham gia cam kết thực hiện mô hình, TTKN Hà Giang tiến hành tập huấn cho các hộ nắm chắc quy trình kỹ thuật thâm cam, đồng thời cấp vật tư hỗ trợ và cử cán bộ hướng dẫn. Áp dụng quy trình VietGAP, cam sinh trưởng, phát triển tốt, mẫu mã quả đẹp, năng suất tăng từ 15 – 20%, góp phần tăng thu nhập cho các hộ tham gia mô hình, đồng thời là nơi để người trồng cam trong và ngoài huyện tham quan, trao đổi kinh nghiệm…

Ông Vũ Văn Mạnh ở xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang cho biết, gia đình ông có 12 ha cam. Ban đầu, chuyển đổi từ trồng cây lâm nghiệp sang trồng cam gặp nhiều khó khăn, lúng túng, diện tích trồng manh mún, chưa tập trung. Gia đình đang loay hoay tìm cách gỡ khó cho cây cam thì được tham gia các lớp tập huấn về hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc cam theo tiêu chuẩn VietGAP.

Được sự tư vấn tích cực của TTKN tỉnh, đến nay diện tích cam của gia đình ông Mạnh phát triển tốt, cho thu nhập cao, kinh tế ổn định, tạo việc làm thường xuyên cho từ 5 – 7 lao động với mức thu nhập 3 triệu đ/người/tháng. Hiện 8 ha cam đang cho thu hoạch với sản lượng trung bình 35 – 40 tấn/năm, thu nhập trên 350 triệu đ/năm… Trước mắt, đẩy mạnh công tác phục tráng các giống cây có múi đặc sản, tiếp tục đầu tư cho nghiên cứu chọn tạo giống mới. Cần tập trung thâm canh và quản lý tốt dịch hại, đặc biệt là bệnh vàng lá greening.

Từ thành công của mô hình, Trung tâm KNQG đã phối hợp với Sở NN-PTNT Hà Giang tổ chức diễn đàn Khuyến nông @ nông nghiệp, chuyên đề “Giải pháp phát triển cam các tỉnh phía Bắc năm 2012”. Theo đó, để cây ăn quả có múi, đặc biệt là cây cam phát triển hiệu quả, bền vững, các địa phương cần quan tâm giải quyết tốt việc quy hoạch SX, quản lý chất lượng giống, tập trung thâm canh, nâng cao năng suất, tuổi thọ vườn cây

Kỹ thuật trồng cam chi tiết

* Làm đất và đào hố: Làm sạch cỏ dại, đào hố theo kích thước rộng 60 cm, sâu 60 cm.

* Bón lót: * Thời vụ:

– Vụ Xuân trồng tháng 2-4.

– Vụ Thu trồng tháng 8-10.

* Mật độ khoảng cách

Tuỳ theo từng vùng đất xấu tốt mà bố trí mật độ khác nhau: Khoảng cách trung bình (5 x 6 m), mật độ 333 cây/ha. Có điều kiện thâm canh cao trồng dày khoảng cách (3 x 3,5 m), mật độ 800 – 1.000 cây/ha.

* Cách trồng

Hố thường phải đào trước khi trồng 15-30 ngày. Trộn đều toàn bộ lượng phân ở trên với lớp đất trên mặt, sau đó cho xuống đáy hố, tiếp theo lấp đất thành ụ cao so với mặt hố 15-20 cm. Vét một hố nhỏ đặt bầu rồi lấp đất vừa kín bầu và nén chặt. Sau đó cắm cọc chéo chữ X vào cây và buộc để tránh làm lay gốc làm chết cây.

* Tưới nước:

Sau khi trồng xong cần phải tưới nước ngay. Nếu trời nắng hạn tưới 1lần/ngày đến khi cây hồi phục sinh trưởng. Sau đó tuỳ điều kiện sinh trưởng và thời tiết để tưới.

* Bón phân

– Thời kỳ cây còn nhỏ 1-3 tuổi: Hàng năm cần bón thúc vào thời điểm: Tháng 1, tháng 2, tháng 5 và tháng 11.

Lượng bón:

Khi bón cần kết hợp xới xáo, làm cỏ.

– Thời kỳ thu hoạch từ năm thứ 4 trở đi: Hàng năm cần bón thúc vào thời điểm:

+ Bón cơ bản (tháng 8 – tháng 11): Phân hữu cơ + Super lân + Vôi.

+ Bón đón hoa, cành xuân từ 15/1 – 15/3: Đạm Urê + Kali.

+ Bón thúc tăng trọng quả vào tháng 5: Đạm Urê + Kali.

+ Bón thúc cành thu và tăng trọng quả tháng 7 – tháng 8: Đạm Urê + Kali.

Ngoài ra bón cho cây sau khi thu hoạch làm cây chóng phục hồi, lượng bón thúc như sau:

Các năm sau lượng phân tăng theo tuổi cây, năng suất quả và tuỳ thuộc loại đất để tăng hoặc giảm lượng phân bón.

Cách bón: Đào rãnh hoặc hốc rộng 20 cm, sâu 15-20 cm xung quanh tán cây, rắc phân lấp đất, tưới đẫm nước.

* Bón tỉa cây

Khi cây có quả, sau mỗi lần thu hoạch cần đốn tỉa bỏ cành nhỏ, cành trong tán, cành sâu bệnh… và tiến hành thường xuyên tạo thuận lợi cho việc hình thành quả.

* Phòng trừ sâu bệnh

Thường xuyên kiểm tra vườn cây, phát hiện sâu bệnh kịp thời.

Sử dụng các biện pháp canh tác (xén tỉa cành lá sâu bệnh…) sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học, thuốc hoá học ít độc, không dùng thuốc cấm và chú ý sử dụng thuốc theo nguyên tắc 4 đúng và chú ý một số loại sâu bệnh…

– Bọ xít, nhện chích hút, rầy, rệp phun: Sherpa 25 EC; Trebon 2,5 EC; Pegasus 500 EC; Actara 25 WG; Danitol 10 EC…

– Bệnh loét sẹo, đốm lá thân và cành lớn, thân quả cần phun: Rhidomil MZ 73 WP; Score 250 EC; thuốc gốc đồng…

Ngoài ra có thể dùng Basudin 10 G để trị kiến, mối, bọ cánh cứng: Trộn tỷ lệ 1 thuốc + 10 cát rắc xung quanh gốc và hố.

* Chú ý: Sử dụng thuốc theo nồng độ ghi ở nhãn thuốc. III. Thu hoạch và bảo quản

Khi quả già, vỏ quả hơi vàng màu đặc trưng của giống thì thu hoạch. Nên thu hái vào lúc trời râm mát, khô ráo. Quả thu hái về cần phân loại. Nếu vận chuyển đi xa khi đóng vào sọt hoặc thùng không quá 5 lớp (đóng sọt phải có lót rơm hoặc giấy giữa các lớp quả).

Sau khi thu hoạch vệ sinh xung quanh tán cây, cắt tỉa cành già, cành sâu bệnh và tiếp tục chăm sóc.