Top 6 # Quy Trình Chăm Sóc Cây Lúa Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Inkndrinkmarkers.com

Quy Trình Trồng Và Chăm Sóc Cây Lúa

Cây lúa xuất xứ từ vùng nhiệt đới nên vùng khí hậu nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho cây phát triển.

Mỗi giống lúa có một nhu cầu về tổng tích nhiệt nhất định và thường: những giống ngắn ngày nhu cầu tổng tích nhiệt từ 2.500-3.000°C, giống trung ngày từ 3.000- 3.500°C và giống dài ngày từ 3.500 – 4.500°C. Căn cứ vào chỉ tiêu này mà lựa chọn giống theo cơ cấu mùa vụ cho phù hợp (Nếu thời gian mùa vụ ngắn và nền nhiệt độ thấp, nên chọn giống có tổng tích nhiệt thấp. Nếu thời gian mùa vụ dài và nền nhiệt độ cao, nên chọn giống có tổng tích nhiệt cao. Và cũng có thể căn cứ vào tổng tích nhiệt của giống để điều tiết các trà cấy trong vụ).

Phân bón giữ vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lúa “Nhất nước, Nhì phân, Tam cần, Tứ giống”. Vì vậy Để giúp Bà con Nông dân trồng Lúa có năng suất và mang lại hiệu quả kinh tế cao Công ty cổ phần phân bón Nhật Long Thanh Hoá xin “Hướng dẫn quy trình trồng và chăm sóc Cây lúa” như sau:

Đạm: Đóng vai trò quan trọng trong hình thành tế bào rễ, thân, lá, có nhiều trong bộ phận non hơn bộ phận già.

Cây hút đạm nhiều nhất vào thời kỳ để nhánh và làm đòng

Thiếu đạm: Cây thấp đẻ nhánh kém, phiến lá nhỏ, hàm lượng diệp lục thấp, lá chuyển vàng nhanh chóng, số bông ít, hạt ít, năng suất giảm.

Thừa đạm: Thân lá rậm rạp, hô hấp tăng lên, tiêu hao gluxit, nhánh đẻ vô hiệu nhiều, lúa trổ muộn, cây cao vóng, dẫn đến hiện tượng lốp đỗ

Lân: Xúc tiến bộ rễ lúa phát triển, tăng nhanh số nhánh đẻ, làm cho lúa trổ bông và chín sớm hơn

Cây hút lân nhiều vào thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng

Thiếu lân: Lá lúa có màu xanh đậm, bản lá nhỏ, hẹp, lá dài ra và mềm yếu, rìa mép lá có màu vàng tía. Thiếu lân lúa đẻ kém, thời kỳ trổ bông và chín đều chậm lại và kéo dài, hạt lép, hàm lượng chất dinh dưỡng trong hạt ít.

LƯU Ý: Trong thời kỳ làm đòng nếu thiếu lân thì năng suất hạt giảm một cách rõ rệt

Kali: Giúp lúa cứng cây, chắc hạt, trong điều kiện âm u thiếu ánh sáng kali xúc tiến quá trình quang hợp của cây lúa.

Thiếu kali: cây lúa thấp, lá hẹp, màu xanh tối, lá mềm rũ xuống, lá phía dưới có màu đỏ nâu, lá khô dần từ dưới lên trên nhanh chóng, số lá xanh trên cây ít

Thời kỳ làm đòng thiếu kali gié bông thoái hóa nhiều, số hạt ít, trọng lượng hạt giảm, hạt lép, tỷ lệ bạc bụng cao và cây lúa dễ bị bệnh Tiêm lửa.

Thời vụ vô cùng quan trọng đảm bảo cho cây sinh trưởng thuận lợi nhất, ra hoa, làm hạt trong điều kiện khí hậu tốt nhất, có lợi cho việc hình thành năng suất.

Vụ mùa:

Trà sớm: Gieo mạ 20 – 30/5 cấy 25/6 – 5/7

Trà mùa trung: Gieo mạ 25/5 – 5/6 cấy trung tuần tháng 7 kết thúc trước 5/8 (lập thu)

Trà mùa muộn: Cấy trước 20 – 25/8

Vụ chiêm xuân:

Chiêm: Gieo cuối tháng 10 giữa tháng 11 cấy cuối tháng 12 tháng 1

Xuân sớm: Gieo mạ 15-25/11 cấy 15-25/1

Xuân chính vụ: Gieo mạ 20/11 đến 5/12 cấy 20/1 – 20/2

Xuân muộn: Gieo mạ 25/1- 5/2 cấy 25/2 – 5/3

Đất lúa cần phải được cày, bừa kỹ và nên tranh thủ làm sớm sau khi thu hoạch. Tùy thuộc địa hình và chân đất mà nên làm ruộng theo kiểu (làm dầm hay làm ải). Ruộng làm dầm phải giữ được nước, ruộng làm ải cần được phơi kỹ, giữa đợt nên cày đảo ải và tiến hành đổ ải trước cấy 5-7 ngày. Làm ải giúp tăng cường quá trình giải phóng dinh dưỡng trong đất, đồng thời hạn chế các độc tố gây hại cây trồng và giúp tiêu diệt tàn dư dịch hại trong đất. Tực tế trong sản xuất cha ông ta đã có câu “Một hòn đất nỏ bằng một giỏ phân”.

Đất lúa phải được cày sâu, bừa kỹ cho thật nhuyễn, mặt ruộng phải phẳng giúp thuận lợi cho cấy và điều tiết nước. Yêu cầu đất lúa trước khi cấy phải sạch gốc rạ và cỏ dại (lúa cấy mạ non ruộng càng phải được làm kỹ, mặt ruộng phải phẳng hơn và để mức nước nông) giúp lúa cấy xong phát triển thuận lợi.

– Tuổi mạ:

Tuổi mạ cấy tùy thuộc vào giống, thời vụ và phương pháp làm mạ. Để tính tuổi mạ có thể dùng ngày tuổi hoặc số lá. Ở vụ mùa tính tuổi mạ theo ngày tuổi (15-18 ngày), còn ở vụ đông xuân theo số lá (mạ dược 5-6 lá, mạ sân hoặc mạ trên nền đất cứng 2-3 lá).

– Mật độ cấy:

Vụ có nhiệt độ thấp cấy dầy hơn vụ có nhiệt độ cao (cấy 1-2 dảnh/khóm); vụ xuân cấy mật độ: 40-45 khóm/m2; vụ mùa cấy mật độ: 35- 40 khóm/m2

– Kỹ thuật cấy:

Cấy thẳng hàng, cấy nông 2-3 cm, cấy sâu sẽ làm cho lúa phát sinh 2 tầng rễ, các mắt đẻ ở vị trí thấp sẽ không phân hoá được mầm nhánh, lúa đẻ nhánh kém, số nhánh hữu hiệu giảm. Vụ chiêm xuân nhiệt độ thấp cần phải cấy sâu hơn vụ mùa để hạn chế tỷ lệ chết rét “Chiêm đào sâu chôn chặt, mùa vừa đặt vừa đi”.

Phân bón là yếu tố quyết định tới 50% năng suất

Phân chuồng hoai mục: 4,0-5,0 tạ/sào 500m 2; 8-10 tấn/ha

5.1. Bón lót:

Sử dụng sản phẩm ” Dinh dưỡng Nhật Long – Chuyên lót L1 ” để bón cho cây lúa trước khi gieo, cấy nhằm cung cấp đầy đủ và cân đối nhu cầu dinh dưỡng khoáng cho cây, giúp cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh bước vào thời kỳ đẻ nhánh thuận lợi hơn.

Lượng dùng: 25kg/sào 500m2.

Sử dụng sản phẩm ” Dinh dưỡng Nhật Long – Chuyên thúc L2 ” để bón thúc đẻ nhánh (bón sau cấy 7-10 ngày), kết hợp làm cỏ sục bùn giúp cây lúa đẻ nhánh khỏe, đẻ tập trung, đạt tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao.

Lượng dùng: 12- 15kg/sào 500m2.

Bón đón đòng vào lúc lúa đẻ nhánh tối đa, trước trỗ 30 – 35 ngày, có tác dụng phân hóa gié và hoa nhằm đạt số hạt/bông cao.

Nếu lúa sinh trưởng tốt có thể không bón đón đòng vì nếu bón lúa sẽ đẻ nhánh vô hiệu nhiều.

Bón nuôi đòng trước trỗ 10 – 12 ngày, có tác dụng kéo dài tuổi thọ lá, tăng khả năng quang hợp, có tác dụng nâng cao tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng hạt.

LƯU Ý: KHÔNG SỬ DỤNG PHÂN THÊM

Khi lúa bắt đầu vào giai đoạn đẻ nhánh cần phải làm cỏ sục bùn: Diệt cỏ dại, bổ sung khâu làm đất, vùi phân tránh mất đạm, tăng nguồn cung cấp oxi giúp cho bộ rễ và vi sinh vật hoạt đọng tốt hơn, làm đứt rễ già, kích thích ra rễ mới.

Vụ xuân nên lấy nước làm áo, sau cấy luôn giữ một lớp nước nông trên mặt ruộng, vừa giữ ấm cho cây lúa giúp cây nhanh bén rễ hồi xanh đồng thời thuận lợi cho việc sử dụng thuốc trừ cỏ và ốc bươu vàng.

Khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh thực hiện phương châm quản lý nước theo công thức: Nông – Lộ – Phơi. Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hô hấp của cây, giúp lúa đẻ nhánh sớm, đẻ khỏe, đẻ tập trung (không để ruộng khô nhằm hạn chế cỏ mọc nhiều). Khi lúa đẻ nhánh kín đất tháo cạn nước để lộ chân chim giúp rễ lúa ăn sâu, tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng và chống đổ cho cây về sau.

Thời kỳ chín sữa rút nước để lúa chín đều, thuận lợi khi thu hoạch

Không bón quá nhiều đạm để chống lốp đổ

Không tưới nước quá sâu

Không cấy quá dày

Chọn giống thấp cây, có khả năng chịu phân

Rút nước phơi ruộng, có chế độ tưới tiêu hợp lý.

Thời kỳ trổ đến chín là thời kỳ quyết định đến hạt lép và trọng lượng hạt, do đó ảnh hưởng đến năng suất lúa.

Nguyên nhân:

Tính di truyền giống

Lúa trỗ nghẹt đòng: do long cổ bông không phát triển bình thường làm cho cổ bông không thoát khỏi bẹ lá đòng, làm cho những gié, những hoa ở gốc bông không tiến hành nở hoa, thụ phấn được nên lép hạt.

Do bị hạn, rét lúc trỗ, thiếu dinh dưỡng bị sâu bệnh

Biện pháp khắc phục:

Bón phân, tưới nước vào thời kỳ trước và sau trỗ bông

Cấy đúng thời vụ để lúa trổ bông thuận lợi

Cỏ, Sâu, bệnh hại và biên pháp phòng trừ

Khi cây lúa bén rễ hồi xanh thì bắt đầu làm cỏ kết hợp với sục bùn và bón thúc. Tuỳ vào giống lúa ngắn hay dài ngày có thể tiếp tục làm cỏ sục bùn từ 1-2 lần nữa và kết thúc trước khi lúa bước vào thời kỳ làm đòng. Làm cỏ sục bùn có tác dụng diệt cỏ dại, vùi phân tránh mất đạm, bổ sung ô xy cho rễ, làm đứt rễ già và kích thích ra rễ mới.

7.2. Sâu hại và biện pháp phòng trừ – Bọ trĩ: Stenchaetothrips biformis Bagnall

Bọ trĩ là loại sâu bệnh hại lúa phổ biến thường thấy, bọ trĩ thường gây hại khi lúa còn non ở giai đoạn mạ, lúa lúa hồi xanh và đang đẻ nhánh.

Lúa xuân muộn (tháng 3,4) thường bị hại nặng hơn cả. Lúa gieo thẳng bị hại nặng hơn lúa cấy. Những năm khô hạn thích hợp cho bọ trĩ phát sinh rộ. Ruộng lúa càng khô hạn thì thiệt hại do bọ trĩ gây ra càng lớn.

Biện pháp phòng trừ bọ trĩ:

+ Vệ sinh đồng ruộng, làm sạch cỏ dại, nhất là cỏ môi là ký chủ chính của bọ trĩ.

+ Gieo cấy mật độ vừa phải, giữ nước không để ruộng khô.

+ Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng phát hiện và phun tuốc kịp thời. Dùng các loại thuốc Regent 800WG, Hopsan 75EC, Selecron 500EC hoặc Actara 25WP phun khi bọ trĩ phát sinh rộ.

– Sâu cuốn lá nhỏ: Medinalis Guenee

Sâu cuốn lá nhỏ à loại sâu bệnh hại lúa gây hậu quả nghiêm trọng đối với cây lúa. Gây hại từ khi lúa đẻ nhánh tới khi lúa ngậm sữa. Quan trọng nhất là giai đoạn lúa đẻ nhánh làm đòng. Những năm có khí hậu mát mẻ, ẩm độ cao, mưa nắng xen kẽ thường phát sinh nặng.

Biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá:

+ Vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ cỏ dại (nơi trú ngụ qua đông của sâu).

+ Gieo cấy mật độ thích hợp, chăm sóc bón phân hợp lý.

+ Bẫy đèn diệt bướm và thường xuyên kiểm tra đồng ruộng. Khi sâu non có mật độ 9 – 12 con/m 2 (giai đoạn lúa đẻ nhánh) và 6 – 9 con/m 2 (giai đoạn lúa làm đòng) cần phun thuốc. Dùng các loại Regent 800WP, Karate 2.5EC… phun khi sâu non tuổi 1-2 bằng các thuốc có hoạt chất: Indoxacarb (Obaone 95 WG … ), Flubendiamide (Takumi 20WG…), Chlorantraniliprole (Virtako 40WG, Prevathon 5 SC, Voliam targo 063SC)

– Sâu đục thân 2 chấm: Scirpophaga incertulas Walker

+ Thời kỳ mạ hoặc đẻ nhánh, sâu đục thân đục qua bẹ phía ngoài vào đến nõn giữa cắn phá làm cho dảnh lúa bị héo.

+ Thời kỳ sắp trỗ hoặc mới trỗ, sâu đục thân đục qua bao của lá đòng chui vào giữa rồi bò xuống đục ăn điểm sinh trưởng, cắt đứt các mạnh dẫn dinh dưỡng làm cho bông lép trắng.

Biện pháp phòng trừ:

+ Vệ sinh đồng ruộng: Cày lật gốc rạ, phơi ải sau khi thu hoạch.

+ Bón phân cân đối, hợp lý

+ Biện pháp thủ công: Dùng bẫy đèn bắt trưởng thành, ngắt ổ trứng đem tiêu hủy.

+ Biện pháp hóa học: Phun trừ đối với ruộng lúa khi mật độ ổ trứng từ 0,3 ổ/m 2 trở lên, những nơi có mật độ trên 0,5 ổ/m 2 ‘ cần tiến hành phun kép 2 lần, cách nhau 4-5 ngày. Phun trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất Chlorantraniliprole (Virtako 40WG, Prevathon 5 SC, Voliam targo 063SC).

– Rầy nâu: Nilaparvata lugens Stal

Rầy nâu thích hợp với điều kiện khí hậu nóng, ẩm độ cao, mưa nắng xen kẽ. Rầy xâm nhập vào ruộng lúa ngay từ khi mới cấy và hại cả trên mạ. Cao điểm rầy phát sinh mật độ lớn và gây hại năng vào giai đoạn lúa trỗ xong, giai đoạn ngậm sữa và bắt đầu chín.

Ở miền Bắc mùa đông lạnh nên có 2 đỉnh cao và gây cháy rầy vào các tháng 5 (vụ xuân) và cuối tháng 9 đầu tháng 10 (vụ mùa) trùng với giai đoạn lúa trỗ – ngậm sữa. Rầy nâu còn là vectơ truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá hại lúa.

Biện pháp phòng trừ:

– Sử dụng giống kháng rầy nâu.

– Gieo cấy mật độ thích hợp, bón phân cân đối, thả vịt vào ruộng lúa diệt rầy, (khi mật độ rầy cám từ 18- 27 con/khóm lúa cần phun thuốc diệt rầy).

– Dùng các loại thuốc có khả năng nội hấp lưu dẫn tốt phu không cần rẽ lúa như: Hoạt chất Pymetrozine (Chess 50WG) Nitenpyram (Acdinosin 50WP.. ) lưu ý phun trước khi lúa đỏ đuôi.

7.3. Bệnh hại lúa

– Bệnh đạo ôn: Pirycularia oryzae Cav

Bệnh đạo ôn hại lúa ở các bộ phận trên cây nhưng rõ nhất trên lá, cổ bông, đốt thân

Biện pháp phòng trừ:

Dọn sạch tàn dư rơm, rạ và cây cỏ mang bệnh ở trên đồng ruộng;

+ Bón phân NPK hợp lý, đúng giai đoạn, không bón đạm tập trung vào thời kỳ lúa dễ nhiễm bệnh. Khi có bệnh phải tạm ngừng bón thúc đạm và tiến hành phun thuốc phòng trừ.

+ Chọn giống kháng hoặc giống ít nhiễm;

+ Giữ nước thường xuyên cho ruộng lúa nhất là khi có dịch bệnh;

+ Khi phát hiện ổ bệnh trên đồng ruộng cần tiến hành phun thuốc trừ sớm và nhanh. Một số loại thuốc hoá học sử dụng để phòng trừ bệnh như Fuji -one 40WP, Bump 650WP, Filia 525SE, Kasai-S 92SC, Kabim 30WP, abum 650WP, Bankan 600WP, Bemsuper 75WP, Katana 20SC, Fu-army 40EC,…

– Bệnh khô vằn: Rhizoctonia solani Kuhn

Là loại bệnh hại lúa toàn thân, bệnh gây hại bẹ lá, phiến lá và cổ bông. Các bẹ lá sát mặt nước hoặc bẹ lá già ở dưới gốc thường là nơi phát sinh bệnh đầu tiên. Trên bẹ lá xuất hiện các vết đốm hình bầu dục màu lục tối hoặc xám nhạt, sau lan rộng ra thành dạng vết vằn da hổ dạng đám mây. Khi bị nặng, cả bẹ lá và lá phía trên bị chết lụi.

Biện pháp phòng trừ:

+ Làm vệ sinh đồng ruộng, thu gom sạch tàn dư cây bệnh từ vụ trước. Cày bừa, xới đất kỹ để chôn vùi hạch nấm, hạn chế sức sống của chúng;

+ Không dùng hạt giống ở những ruộng bị nhiễm bệnh. Cấy lúa dày vừa phải, bón cân đối NPK, phân chuồng trước khi bón phải được ủ hoai mục.

+ Kiểm tra đồng ruộng, phát hiện và phun trừ những diện tích lúa bị nhiễm bệnh khô vằn (có tỷ lệ từ 20% số dảnh bị bệnh), đặc biệt những ruộng lúa đang làm đòng, những ruộng lúa xanh tốt. Các loại thuốc hóa học có thể sử dụng để phun trừ bệnh như: Camilo 150SC, Chevil 5SC, Tilt super 300EC, Nevo 330EC, Anvil 5SC, Rovral 50WP, Callihex 5SC, Hecwin 5SC, chúng tôi 5SC, Til calisuper 300EC,…

– Bệnh bạc lá: Xanthomonas oryzae

Thường bệnh xảy ra lúc mưa to và gió lớn. Lúa vụ mùa một số giống có tiềm năng năng suất cao thường hay bị bệnh bạc lá. Bệnh do vi khuẩn Xanthomonas Oryzea gây ra, khi mắc bệnh thì cây không có khả năng quang hợp để tạo dinh dưỡng nuôi hạt, từ đó những ruộng lúa bị bệnh bạc lá tỷ lệ lép rất cao, làm giảm năng suất rất lớn, có thể mất trên 50% năng suất.

Biện pháp phòng trừ:

+ Biện pháp cơ bản nhất là dùng giống chống bệnh và Bón phân cân đối, hợp lý giữa đạm, lân, kali. Đặc biệt yếu tố đạm.

+ Vụ mùa thường có mưa giông lớn những giống mẫn cảm dễ bị bệnh nặng hơn nên hạn chế cấy giống nhiễm ở vụ này

+ Sử dụng hạt giống sạch bệnh. Xử lý hạt giống ở 54 0 C trong 15 phút.

+ Khi bệnh tiến hành phun thuốc phòng trừ: Sasa, Startner, Xanthomic, Steptomicin Fisan (lúa vàng), Kasumin và các thuốc có nguồn gốc kháng sinh khác. Tuy nhiên, biện pháp này hiệu quả thấp.

Ít nhất là 85% những hạt trên bông có màu vàng (đã chín), hầu hết các hạt ở cổ bông đã chín sáp.

Nên thu hoạch lúa giống lúc trời nắng.

Quy Trình Bón Phân Cho Cây Lúa

Lúa là cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn, chịu thâm canh cao, năng suất có thể đạt từ 8 -10 tấn/ha.

Nhu cầu dinh dưỡng cây Lúa: Ở Việt Nam lượng dinh dưỡng cho lúa giao động từ

+ Đối với các giống lúa thuần dưới 95 ngày

+ Đối với các giống lúa thuần trên 95 ngày

+ Đối với các giống lúa lai dưới 95 ngày

+ Đối với các giống lúa lai trên 95 ngày

Để cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt – đạt năng suất cao nhất, ngoài các yếu tố dinh dưỡng chính như: Đạm, Lân, Kali thì cần bổ sung các chất dinh dưỡng trung: Canxi, Magie, Lưu huỳnh đặc biệt là Silic và vi lượng: Đồng, Kẽm, Sắt, Molipden, Bo, Mangan… (Tham khảo cẩm nang dinh dưỡng cây trồng)

QUY TRÌNH BÓN PHÂN

1. Bón lót (Bón trước khi cấy hoặc gieo sạ)

C1: Bón phân đơn:

+ Supe Lân: 15 – 20kg/500m2 (300 – 400kg/ha)

+ Đạm Urea: 2 – 4kg/500m2 (40 – 80kg/ha)

+ Kali Clorua: 1 – 1,5kg/500m2 (20 – 30kg/ha)

C2: Bón phân NPK

(Chọn các sản phẩm chuyên lót cho lúa có hàm lượng lân cao, hàm lượng đạm và kali thấp)

+ NPK 5.10.3; NPK 6.8.4; NPK 6.9.3… : 25 – 30kg/500m 2 (500 – 600kg/ha)

hoặc DAP (18-46): 7 – 10kg/kg/500m 2 (140 – 200kg/ha).

Nếu bón loại hàm lượng cao hơn có thể giảm lượng bón theo tỷ lệ thích hợp hoặc theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

Không nên chọn loại phân có hàm lượng Đạm và Kali quá cao mà Lân thấp (VD: NPK 8.2.8; 12.2.10; 20.5.15…) để bón lót làm mất cân bằng dinh dưỡng, lúa dễ bị sâu bệnh.

Cách bón: Trộn đều phân và rải đều khắp mặt ruộng trước khi cấy, sạ.

2. Bón thúc đẻ nhánh (sau khi lúa bén rễ hồi xanh hoặc 20 – 25 ngày sau sạ)

C1: Bón phân đơn:

+ Đạm Urea: 5 – 7kg/500m 2 (100 – 140kg/ha);

+ Kali Clorua: 2 – 3kg/500m 2 (40 – 60kg/ha).

C2: Bón phân NPK

(Chọn các sản phẩm chuyên thúc cho lúa có hàm lượng Đạm cao, hàm lượng kali vừa phải)

+ NPK 12.2.10; NPK 12.2.12; NPK 11.1.8: 18 – 20kg/500m 2 (360 – 400kg/ha)

Nếu bón loại hàm lượng cao hơn có thể giảm lượng bón theo tỷ lệ thích hợp hoặc theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

Cách bón: Trộn đều phân rải đều khắp ruộng kết hợp làm cỏ sục bùn.

3. Bón đón đòng (khi lúa đứng cái làm đòng)

C1: Bón phân đơn:

+ Đạm Urea: 1 – 2kg/500m 2 (20 – 400kg/ha);

+ Kali Clorua: 2 – 3 kg/500m 2 (40 – 60kg/ha).

C2: Bón phân NPK

(Chọn các sản phẩm chuyên thúc đón đòng cho lúa có hàm lượng Đạm cao và Kali cao)

+ NPK 12.2.10; NPK 12.2.12; NPK 11.1.8: 8 – 10kg/500m2 (160 – 200kg/ha)

Nếu bón loại hàm lượng cao hơn có thể giảm lượng bón theo tỷ lệ thích hợp hoặc theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

Cách bón: Trộn đều phân rải đều khắp ruộng.

Hướng Dẫn Quy Trình Trồng Và Bón Phân Cho Cây Lúa

QUY TRÌNH KỸ THUẬT GIEO CÂY VÀ CHĂM SÓC CÂY LÚA CAO SẢN

TIẾN NÔNG 2016-2017

Cây lúa xuất xứ từ vùng nhiệt đới nên vùng khí hậu nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho cây phát triển. Mỗi giống lúa có một nhu cầu về tổng tích nhiệt nhất định và thường: những giống ngắn ngày nhu cầu tổng tích nhiệt từ 2.500-3.000°C, giống trung ngày từ 3.000-3.500°C và giống dài ngày từ 3.500-4.500°C. Căn cứ vào chỉ tiêu này mà lựa chọn giống theo cơ cấu mùa vụ cho phù hợp (Nếu thời gian mùa vụ ngắn và nền nhiệt độ thấp, nên chọn giống có tổng tích nhiệt thấp. Nếu thời gian mùa vụ dài và nền nhiệt độ cao, nên chọn giống có tổng tích nhiệt cao. Và cũng có thể căn cứ vào tổng tích nhiệt của giống để điều tiết các trà cấy trong vụ)

Bài viết này sẽ nói chi tiết về cách trồng lúa và cách bón phân cho lúa.

(Áp dụng cho cả trồng lúa vụ đông xuân và trồng lúa vụ hè thu)

1. Làm đất

Đất lúa cần phải được cày, bừa kỹ và nên tranh thủ làm sớm sau khi thu hoạch. Tùy thuộc địa hình và chân đất mà nên làm ruộng theo kiểu (làm dầm hay làm ải). Ruộng làm dầm phải giữ được nước, ruộng làm ải cần được phơi kỹ, giữa đợt nên cày đảo ải và tiến hành đổ ải trước cấy 5-7 ngày. Làm ải giúp tăng cường quá trình giải phóng dinh dưỡng trong đất, đồng thời hạn chế các độc tố gây hại cây trồng và giúp tiêu diệt tàn dư dịch hại trong đất. Tực tế trong sản xuất cha ông ta đã có câu “Một hòn đất nỏ bằng một giỏ phân”.

Đất lúa phải được cày sâu, bừa kỹ cho thật nhuyễn, mặt ruộng phải phẳng giúp thuận lợi cho cấy và điều tiết nước. Yêu cầu đất lúa trước khi cấy phải sạch gốc rạ và cỏ dại (lúa cấy mạ non ruộng càng phải được làm kỹ, mặt ruộng phải phẳng hơn và để mức nước nông) giúp lúa cấy xong phát triển thuận lợi.

2. Gieo cấy, trồng lúa

– Tuổi mạ: Tuổi mạ cấy tùy thuộc vào giống, thời vụ và phương pháp làm mạ. Để tính tuổi mạ có thể dùng ngày tuổi hoặc số lá. Ở vụ mùa tính tuổi mạ theo ngày tuổi (15-18 ngày), còn ở vụ đông xuân theo số lá (mạ dược 5-6 lá, mạ sân hoặc mạ trên nền đất cứng 2-3 lá).

– Mật độ cấy: Vụ có nhiệt độ thấp cấy dầy hơn vụ có nhiệt độ cao (cấy 1-2 dảnh/khóm); vụ xuân cấy mật độ: 40-45 khóm/m 2; vụ mùa cấy mật độ: 35- 40 khóm/m 2

– Kỹ thuật cấy: Cấy thẳng hàng, cấy nông 2-3 cm, cấy sâu sẽ làm cho lúa phát sinh 2 tầng rễ, các mắt đẻ ở vị trí thấp sẽ không phân hoá được mầm nhánh, lúa đẻ nhánh kém, số nhánh hữu hiệu giảm. Vụ chiêm xuân nhiệt độ thấp cần phải cấy sâu hơn vụ mùa để hạn chế tỷ lệ chết rét “Chiêm đào sâu chôn chặt, mùa vừa đặt vừa đi “.

3. Bón phân cho lúa

Độ chua và hàm lượng mùn của đất có tác động nhiều đến các đặc tính lý, hóa và sinh học đất, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình dinh dưỡng khoáng của cây lúa. Nhìn chung đất trồng lúa của chúng ta có phản ứng chua, nghèo mùn (pH từ 4,5-5,5), trong khi pH thích hợp nhất cho cây lúa sinh trưởng, phát triển là 5,5-6,5. Vì vậy, cần thiết phải cải tạo pH đất bằng chất điều hòa pH đất Tiến Nông và cải thiện hàm lượng mùn cho đất bằng phân chuồng hoai mục hoặc phân hữu cơ.

Cách bón: Bón kết hợp phân chuồng trước khi cày bừa lần cuối.

Để tạo ra 1 tấn thóc cây lúa hút 24-28 kg N; 7- 9 kg P 2O 5 ; 28-32 kg K 2O; 40-50 kg SiO 2 và nhiều nguyên tố trung, vi lượng khác. Cây lúa có hai thời kỳ sinh trưởng quan trọng và mẫn cảm với phân bón mà nếu thiếu hụt sẽ khó có thể được bù đắp (thời kỳ đẻ nhánh và thời kỳ phân hóa đòng). Do vậy, phân bón cho lúa phải đáp ứng đầy đủ và cân đối các yếu tố dinh dưỡng, đồng thời phải cung cấp đúng thời điểm mới có thể cho năng suất tối ưu.

+ Bón lót: Sử dụng sản phẩm ” Dinh dưỡng Tiến Nông – Lúa 1 chuyên lót” để bón cho cây lúa trước khi gieo, cấy nhằm cung cấp đầy đủ và cân đối nhu cầu dinh dưỡng khoáng cho cây, giúp cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh bước vào thời kỳ đẻ nhánh thuận lợi hơn. Lượng dùng: 18-22kg/sào 360m 2; 25-30kg/sào 500m 2; 500-600kg/ha.

+ Bón thúc lần 2 (thúc phân hóa đòng): Sử dụng sản phẩm “Dinh dưỡng Tiến Nông – Lúa 2 chuyên thúc” để bón, bón vào giai đoạn lúa đứng cái (30-35 ngày sau cấy) giúp tăng số hạt và chiều dài bông lúa. Lượng dùng: 7-10kg/sào 360m 2; 10-15kg/sào 500m 2; 200-300kg/ha.

4. Quản lý nước:

Vụ xuân nên lấy nước làm áo, sau cấy luôn giữ một lớp nước nông trên mặt ruộng, vừa giữ ấm cho cây lúa giúp cây nhanh bén rễ hồi xanh đồng thời thuận lợi cho việc sử dụng thuốc trừ cỏ và ốc bươu vàng.

Khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh thực hiện phương châm quản lý nước theo công thức: Nông – Lộ – Phơi. Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hô hấp của cây, giúp lúa đẻ nhánh sớm, đẻ khỏe, đẻ tập trung (không để ruộng khô nhằm hạn chế cỏ mọc nhiều). Khi lúa đẻ nhánh kín đất tháo cạn nước để lộ chân chim giúp rễ lúa ăn sâu, tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng và chống đổ cho cây về sau.

Th.S Lê Thị Hồng Nhung điện thoại: 0912224636. Email: nhung@tiennong.vn

Quy Trình Canh Tác Lúa Vụ Hè Thu

1. CHUẨN BỊ ĐẤT: Sau khi thu hoạch xong lúa vụ Đông Xuân tiến hành các bước như sau: – Mướn máy cắt rạ và đánh đều những luống rơm đã cắt, phơi 01 ngày sau đó tiến hành đốt để diệt các mầm móng sâu bệnh. – Sau khi đốt rơm cần nhanh chóng cày hoặc xới theo đúng kỹ thuật, phơi đất từ 7-10 ngày. Nếu để thời gian phơi đất càng lâu càng tốt. – Khi đến thời điểm xuống giống, tiến hành bơm nước vào ruộng trục 02 tác, kết hợp san bằng mặt ruộng, đánh gò thoát nước để chuẩn đất cho gieo sạ lúa.

* Chọn giống: Đối với vụ Hè thu không nên sản xuất lúa Jasmine 85, do thời tiết không thích hợp cho giống lúa này, năng suất thấp, chất lượng gạo kém, hiệu qủa sản xuất thấp, nhiều rủi ro. Do đó, nên chọn các giống lúa chất lượng cao, chất lượng gạo tốt, thích hợp trong vụ Hè thu như: OM4218, OM 5451, OM6976, OM7347, OM4900…cấp xác nhận để sản xuất. Mật độ gieo sạ tốt nhất: 120 – 130 kg/ha. Trước khi ngâm ủ 3-5 ngày phải lấy mẫu đại diện cho số lượng giống cần để thử tỷ lệ nẩy mầm, lúa mọc mầm trên 80% thì đạt yêu cầu gieo sạ. * Cách ngâm ủ: Do giống vụ Hè thu được sản xuất từ vụ Đông xuân nên hạt giống còn miên trạng nên cần phải xử lý với acid HNO3 68% ở liều lượng 5-7cc cho 01 kg lúa giống trong thời gian 24-30 giờ ở giai đoạn ngâm giống. Ngay khi đổ lúa vào bồn ngâm cần vớt hết các hạt lép lừng ra để loại bớt mầm bệnh lây lan. Thời gian ngâm từ 30 – 36 giờ, sau đó xả bỏ nước và rửa sạch hạt giống bằng nước sạch sao cho hạt giống hết mùi chua rồi đem ủ. Thời gian ủ từ 30 – 36 giờ là có thể đem gieo sạ tùy theo công cụ gieo sạ. Chú ý: trong quá trình ngâm hoặc ủ có thể dùng thuốc xử lý hạt giống như: Gaucho, Folicur, Cruiser, … để loại trừ bệnh lúa von và côn trùng chích hút gây hại ngay từ đầu vụ.

2. QUẢN LÝ NƯỚC: Quản lý nước trong ruộng phù hợp giúp cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt, ít chịu tác động của phèn, ngộ độc hữu cơ. Quản lý tốt trong ruộng còn giảm thất thoát dinh dưỡng và hạn chế được sự phát triển của các loại dịch hại như: sâu, bệnh, cỏ dại. Áp dụng kỹ thuật tưới “ướt khô xen kẽ” của Viện lúa Quốc tế IRRI như sau: Cây lúa không phải lúc nào cũng cần ngập nước và chỉ cần bơm nước vào ruộng cao tối đa là 5cm. Trong tuần đầu tiên sau khi sạ, giữ mực nước ruộng từ bảo hòa đến cao khoảng 1 cm. Mức nước trong ruộng sẽ được giữ cao khoảng 1 – 3 cm theo giai đoạn phát triển của cây lúa và giữ liên tục cho đến bón phân lần hai (khoảng 20 – 25 ngày sau khi sạ), giai đoạn này nước là nhu cầu thiết yếu để cây lúa phát triển. Giữ nước trong ruộng ở giai đoạn này hạn chế sự mọc mầm của các loài cỏ (có nước làm môi trường thành yếm khí, hạt cỏ sẽ không mọc được). Cần sử dụng thuốc trừ cỏ phù hợp trong giai đoạn này. Giai đoạn từ 25 – 40 ngày sau khi sạ là giai đoạn lúa đẻ nhánh rộ và tối đa, phần lớn chồi vô hiệu thường phát triển trong giai đoạn này nên chỉ cần nước vừa đủ. Giữ mực nước trong ruộng từ bằng mặt đất đến thấp hơn mặt đất 15 cm (đặt ống nhựa có đục lỗ bên hông, bên trong có chia vạch 5 cm để theo dõi). Khi nước xuống thấp hơn vạch 15 cm thì bơm nước vào ngập tối đa 5 cm so với mặt đất ruộng. Khi nước hạ từ từ dưới vạch 15 cm thì bơm nước vào tiếp. Cách điều tiết nước này sẽ làm phơi lộ mặt ruộng vì vậy được gọi là tưới “ướt khô xen kẽ”. Mực nước dưới mặt đất càng xa (nhưng không thấp hơn 15 cm so với mặt đất) sẽ giúp rễ lúa ăn sâu vào trong đất, chống đổ ngó và dễ thu hoạch. Ở giai đoạn lúa 25 – 40 ngày, lá lúa phát triển giáp tán, hạt cỏ có nảy mầm cũng không phát triển và cạnh tranh với cây lúa. Đây cũng là giai đoạn cây lúa rất dễ bị bệnh khô vằn tấn công, mực nước không cao làm hạch nấm khô vằn sẽ không phát tán trong ruộng, bệnh ít lây lan. Giai đoạn lúa 40 – 45 ngày sau sạ, đây là giai đoạn bón phân lần 3 (bón thúc đòng hay bón đón đòng). Lúc này cần bơm nước vào khoảng 1 – 3 cm trước khi bón phân nhằm tránh ánh sáng làm phân hủy và phân bị bốc hơi, đặc biệt là phân đạm. Giai đoạn lúa từ 60 – 70 ngày sau sạ, đây là giai đoạn lúa trỗ nên cần giữ mực nước trong ruộng cao 3 – 5 cm liên tục trong khoảng 10 ngày để đủ nước cho cây lúa trỗ và thụ phấn dễ dàng, hạt lúa không bị lép, lửng. Cây lúa 70 ngày đến thu hoạch là giai đoạn lúa ngậm sữa, chắc và chín nên chỉ cần giữ mực nước từ bằng mặt đất đến thấp hơn mặt đất 15 cm (khi cần thiết thì bơm nước vào thêm). Lưu ý phải “xiết” nước 10 – 15 ngày trước khi thu hoạch để mặt ruộng được khô ráo, dễ áp dụng bằng máy gặt.

Đối với ruộng sản xuất lúa sử dụng thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm để hạn chế cỏ dại, lúa cỏ, lúa lưu trữ ở nền đất ngay trong giai đoạn đầu gieo sạ theo công thức “2S”(phun 2 lần Sofit); Cách phun xịt như sau: Phun thuốc Sofit lần 1: tiến hành phun ngay sau khi làm đất lần cuối giữ mực nước cố định trong ruộng sâu 07-10 cm. Liều lượng thuốc 1,2 lít/ ha, nồng độ phun: với bình máy 25 lít pha 200 ml và phun 6 bình/ ha. Phun thuốc xong giữ nước tối thiểu 24 tiếng (1 ngày đêm) sau đó tháo bỏ nước cạn rồi mới tiến hành gieo sạ. Phun thuốc Sofit lần 2: tiến hành sau khi gieo sạ lúa 03 ngày. Liều lượng 1 lít/ ha, nồng độ phun: với bình 25 lít pha 83 ml và phun 12 bình/ ha Chú ý: Phun thuốc lần 2 có thể bỏ không cần phun diện tích đất lung sâu để tiết kiệm chi phí sản xuất. Vô nước sớm (5-7 ngày sau sạ) phủ đất 3-5 cm để khống chế không cho cỏ mọc trở lại. Trường hợp cỏ còn xót ở ruộng gò hoặc chân bờ xung quanh ruộng thì xịt quét lại bằng thuốc Sirius, Topshop, Push … vào thời điểm từ 7 – 15 ngày (nồng độ và liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì) hoặc nhổ bằng tay.

4. QUẢN LÝ DINH DƯỠNG (BÓN PHÂN): Phân boùn là loại thức ăn cho cây trồng nguồn dinh dưỡng chủ yếu cho cây phát triển. Trên từng loại đất, từng loại cây trồng cũng như các giai đoạn sinh trưởng và phát triển mả cây cần từng loại dinh dưỡng cũng như liều lượng khác nhau. Để cây sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất và chất lượng cao cần chú ý nguyên tắc bón phân 5 đúng: * Bón đúng chủng loại phân: Cây trồng cần phân gì thì bón phân đấy. Phân bón nhiều loại, nhưng có 3 loại chính là đạm (N); Lân (P2O5); Kali (K2O). Lưu huỳnh (S), Canxi (Ca), Ma nhe (Mg) cũng rất cần nhưng với lượng ít hơn. Mỗi loại có chức năng riêng nếu bón không đúng không phát huy được hiệu quả mà còn gây hại cho cây. Bón đúng không những đáp ứng được yêu cầu của cây mà còn giữ được ổn định môi trường của đất. Ở đất chua tuyệt đối không bón những loại phân có tính axít cao quá ngưỡng và trên loại đất kiềm không bón những loại phân có tính kiềm cao quá ngưỡng. * Bón đúng nhu cầu sinh lý của cây: Nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển . Có loại cây ở giai đoạn sinh trưởng cần kali hơn đạm; cũng có loại cây ở thời kỳ phát triển lại cần đạm hơn kali. Bón đúng loại phân mà cây cần mới phát huy hiệu quả. Trong suốt thời kỳ sống cây trồng luôn luôn có nhu cầu các chất dinh dưỡng cho sinh trưởng và phát triển. vì vậy khi bón phân nên chia ra nhiều lần bón theo quy trình và bón vào lúc cây phát triển mạnh, Việc bón quá nhiều một lúc sẽ gây thừa lãng phí ô nhiễm môi trường, cây sử dụng không hết sẽ làm cho cây biến dạng dễ nhiễm bệnh, năng suất chất lượng nông sản thấp. Bón phân có 3 thời kỳ: Bón lót trước khi trồng (hay bón hồi phục sau khi cây thu hoạch vụ trước), bón thúc (nhằm thúc đẩy quá trình sinh trưởng của cây tạo nhánh lá mới), Bón rước hoa (rước đòng) có nơi bổ xung tạo hạt nuôi trái. * Bón đúng nhu cầu sinh thái: Bón phân là hình thức bổ xung vào đất chất dinh dưỡng cho cây trồng ngoài ra còn có các vi sinh vật (VSV) trong đất phân hủy các chất hữu cơ có sẵn hoặc cố định đạm từ không khí vào đất. Bón phân không những cung cấp cho cây trồng mà giúp cho VSV phát triển hữu hiệu hơn. Bón đúng loại phân đúng thời cơ bón đúng đối tượng làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với thời tiết bất thường của môi trường và sâu bệnh gây hại. Bón phân không phaỉi lúc nào cũng để cung cấp dinh dưỡng thúc đẩy cây phát triển mà còn có trường hợp phải dùng phân để tác động hãm bớt tốc độ sinh trưởng nhằm tăng tính chông chịu của cây trước các yếu tố xấu phát sinh. Bón đúng vụ và thời tiết: Mùa vụ, nhiệt độ và thời tiết rất ảnh hưởng đến hiệu quả của phân bón không tạo được môi trường dinh dưỡng để tiêu, cây không phát triển, thối hoa quả. Bón đúng phương pháp: Có 2 loại phân bón: Phân bón gốc và phân bón lá. Tùy từng loại cây mà có phương pháp bón cho thích hợp, Với phân bón gốc thì bón vào hố , tán hoặc rải đều trên mặt đất. Với phân bón lá thì phun đều trên lá nếu ướt đều cả hai mặt lá thì càng tốt.

MỘT SỐ CÔNG THỨC PHÂN (CHO 01) HA LÚA THAM KHẢO:

5. XỬ LÝ NGỘ ĐỘC PHÈN VÀ NGỘ ĐỘC HỮU CƠ * Triệu chứng của ngộ độc phèn và ngộ độc hữu cơ: Nếu lúa bị ngộ độc phèn thì rễ la bị nhuộm đỏ, ít có rễ mới, vuốt trên tay thấy rễ nhám và cong queo, lá từ xanh đậm chuyển sang màu tím, có những lốm đốm nâu đỏ và cháy từ chót lá vào bên trong và xuống gốc lá, cây đẻ nhánh kém và ít bắt phân. Cây lúa bị ngộ độc hữu cơ thì rễ đen, có mùi trứng thối, thậm chí lớp đất xung quanh rễ cũng bị thối, trên lá cũng có những triệu chứng tương tự như ngộ độc phèn. Nếu bị nặng gốc lá thối rục ra và cây chết.

* Biện phâp khắc phục: – Ruộng lúa phải có hệ thống mương thoát phèn và rửa độc khi cần thiết. – Bón vôi và lân đầy đủ ngay đầu vụ (300 – 400 kg/ha). – Tháo nước giữa vụ: khi lúa được 30 ngày nên tháo nước cạn ruộng chừng 10 ngày để đất được thông thoáng, giải phóng bớt chất độc trong đất và cũng giúp lúa có bộ rễ ăn sâu, ít đẻ chồi vô hiệu.

* Phòng ngộ độc phèn, ngộ độc hữu cơ: + Bón lót hay bón sau khi sạ 0 – 3 ngăy: 2 – 3 kg Super Humic + 300 kg lân đun nung chảy + 20 – 30 kg urê để rơm rạ được phân huỹ bớt khí độc khi ruộng còn cạn nước, đồng thời Super Humic sẽ cố định bớt sắt và các kim loại khác có trong đất phèn. + Phun Hydrophos khi cây lúa được 15 – 18 ngày sau sạ để tăng khả năng kháng phèn, đồng thời giúp lúa đẻ chồi nhanh, tăng số chồi hữu hiệu, bộ rễ mạnh, tăng năng suất về sau. +Phun lại Hydrophos lần 2 khi cây lúa được 40 – 45 ngày sau sạ (lúc rước đòng) để giúp lúa kháng phèn, kháng ngộ độc hữu cơ giai đoạn cuối, đồng thời lúa phân hóa đòng tốt và trổ nhanh. Liều lượng sử dụng Hydrophos lă 40 – 50ml/bnh 16 lt (khoảng 1 lt/ha).

* Cứu lúa khi ruộng bị ngộ độc phèn hay ngộ độc hữu cơ xảy ra: + Bước 1: tháo cạn nước ruộng để xả độc, giữ cạn trong vng 7 – 10 ngày. + Bước 2: rải 2 – 3 kg Super Humic + 100 – 200 kg lân đun nung chảy hoặc vôi cho 1 ha. + Bước 3: phun Hydrophos liền sau đó, liều lượng 1 lít/ha.

Sau 5 – 7 ngày rễ ra trắng, lúa xanh trở lại thì có thể cho nước vào và bón phân trở lại theo nhu cầu ây lúa.

6. HẠN CHẾ ĐỔ NGÃ: * Bón phân cân đối ngay từ đợt 1, chỗ đất lung, 2 đầu vạt ruộng, chỗ đất bị che khuất ánh nắng giảm lượng đạm, không bón lân trễ và tăng cao lượng kali. * Tưới tiêu hợp lý: Ruộng cần đánh nhiều rãnh sâu để thoát nước nhanh, mực nước duy trì trong ruộng từ 3-5 cm. Tháo cạn nước khoảng 5-7 ngày ở giai đoạn 30-35 ngày, 50-55 ngày, 70-75 ngày giúp cho đất cứng thoáng khí bộ rễ ăn sâu. Sử dụng phân bón vi lượng CASI phun ở 2 giai đoạn 25-30 ngày, 70 ngày. bắt đầu trổ).

1. Ốc bươu vàng: – Đối với vụ Hè Thu: do thời tiết nắng nóng ốc vùi vào trong đất do đó ta không diệt được ngay đầu vụ. Khi cho nước vào bón phân lần 1 lúc này ốc bò lên cắn lúa ta kết hợp thuố cbã mồi (Toxbai 5kg/ha, Tomahawk 20kg/ha)rồi trộn với phân rãi đều trên ruộng.

2. Bù lạch ( bọ trĩ): Xuất hiện sớm ở giai đoạn lúa 5 – 10 NSKS ở những ruộng lúa phát triển kém, thiếu nước. Thường thấy ở vụ Hè Thu. – Hiện tượng: lúa vàng, đọt bị cuốn từ mép vào, nhúng ướt tay vuốt nhẹ ngang đọt lúa, quan sát trên tay thấy những con bọ trĩ nhỏ li ti có màu từ vàng nâu đến nâu sậm bám vào. – Phòng trị: + Có thể ngừa bằng cách xử lí giống lúc ngâm ủ. + Trị bù lạch bằng cách cung cấp nước và dinh dưỡng (phun phân bón lá có hàm lượng lân (P2O5) cao) cho cây lúa phát triển rể, sau đó bón phân thúc đợt 1 sớm ( 7 – 10 NSKS) giúp cây lúa nở lá, nở đọt. Bù lạch không còn nơi ẩn náu và sẽ bị tiêu diệt bởi ánh sáng mặt trời. + Có thể sử dụng thuốc trừ sâu như: Regen xanh 1gói/bình máy.

4. Sâu cuốn lá nhỏ 3.1 Mô tả sâu cuốn lá nhỏ Ngài thân dài: 8-10mm, màu vàng nâu. Cánh có hai vệt ngang hình lượn sóng, màu tro. Mép ngoài của cánh có viền màu nâu sẫm hoặc xám. Trứng hình bầu dục dài 0.5mm, màu vàng nhạt Sâu non có 5 tuổi. Khi đẫy sức sâu dài trên 15mm màu xanh lá mạ Nhộng dài 7-10mm, màu nâu nhạt. 3.2 Đặc điểm gây hại Ngài thường vũ hoá và đẻ trứng vào ban đêm, ban ngày ẩn náu trong khóm lúa. Mỗi con cái có thể đẻ trên 50 trứng. Ngài có tính hướng sáng. Sâu non mới nở rất linh hoạt. Sâu non nhả tơ cuốn dọc hai mép lá lại tạo thành bao, sâu sống và gây hại bên trong bao bằng cách ăn mô lá màu xanh có diệp lục tố, chỉ chừa lại lớp biểu bì màu trắng, ruộng lúa bị hại trông xơ xác nhìn từ xa thấy bạc trắng. Mỗi sâu non có thể phá hại 5-9 lá. Khi đẫy sức sâu cắn đứt 2 mép lá, nhả tơ làm thành bao kín và hóa nhộng trong đó. Sâu phá hại mạnh nhất khi lúa đẻ nhánh và làm đòng đến trỗ bông. Lá lúa bị sâu hại mất diệp lục tố màu xanh nên khả năng quang hợp bị giảm, lúa sinh trưởng kém, hạt bị lép, làm năng xuất thất thu nghiêm trọng. Ngoài ra, vết thương ở mép lá cắn tạo điều kiện cho vi khuẩn bệnh cháy bìa lá xâm nhập và gây hại. 3.3 Các biện pháp phòng trừ Gieo trồng với mật độ hợp lý Mật độ và kỹ thụật gieo trồng phụ thuộc vào giống lúa, thời vụ, đất, dinh dưỡng, khả năng thâm canh của các hộ nông dân. Mật độ quá dầy hoặc quá thưa đều ảnh hưởng đến năng suất, đồng thời cịn ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển của sâu bệnh, cỏ dại. Sử dụng phân bón hợp lý Bón phân không hợp lý làm cho cây phát triển không bình thường, dễ bị sâu bệnh phá hại. Ruộng lúa bón quá nhiều phân đạm làm cho cây phát triển quá tốt, màu xanh của lá hấp dẫn các loại sâu hại. Ngược lại bón không đủ phân, không được chăm sóc tốt và không đủ nước cây lúa còi cọc dễ bị sâu bệnh hại. Biện pháp hóa học Sâu cuốn lá gây hại nặng trên lá cờ làm giảm quang hợp, lúa bị lép. Nếu mật số cao (15-20 lá bị hại/m2) ở giai đoạn lúa trổ (65 – 70 NSKS) thì sử dụng thuốc đặc trị như : Akka, Apamex, Aremex, Regent 800WG, Padan 95, Vitako, Amate… Chú ý: Khi thấy bướm sâu cuốn lá nở rộ, thì 07 ngày sau đó phun các loại thuốc trên là tốt nhất. 5. Sâu đục thân

4.1 Đặc tính gây hại Gây thiệt hại đáng kể bằng việc làm giảm số chồi hữu hiệu, xuất hiện từ giai đoạn lúa được 20 – 25NSKS đến lúa chín sáp. Nếu sâu xuất hiện sớm khi lúa dưới 30 NSKS, lúc này cây lúa có khả năng nẩy chồi thay thế vì vậy không cần can thiệp thuốc BVTV. Nếu sâu tấn công lúc cây lúa ở giai đoạn 40 NSKS trở về sau, ở giai đoạn này cây lúa không thể cho chồi hữu hiệu để thay thế vì vậy năng suất lúa năng suất lúa sẽ bị làm giảm đáng kể. 4.2 Biện pháp phòng trị Để phòng ngừa không nên gieo sạ dày, cân đối lượng phân bón, tránh bón dư đạm. Khi cây lúa được 40 NSKS trở về sau nếu thấy bướm xuất hiện (màu trắng, cánh có hai chấm đen), 6-7 ngày sau tiến hành rải các loại thuốc trừ sâu lưu dẫn dạng hạt như: Basudin 10H, Regent 0.3G, Padan 3H…; nếu không sử dụng thuốc hạt thì phun một trong các loại thuốc như: Padan 95, Basudin 50ND,Prevathon …6. Sâu phao: 5.1 Đặc tính gây hại Là đối tượng mới được phát hiện trong vài năm trở lại đây, có đặc điểm giống như sâu phao là dùng lá lúa cuốn lại thành phao và di chuyển trên mặt nước để đến nơi ăn phá.Tuy nhiên đặc điểm phân biệt giữa sâu phao đục bẹ và sâu phao là: – Sâu phao: sử dụng ngọn lá lúa cuốn quanh mình tạo thành phao di chuyển trên mặt nước, sâu non gặm thành mô diệp lục của lá lúa non, để lại lớp biểu bì màu trắng, khi sâu lớn cắn ngang lá lúa cuốn phao, do đó triệu chứng của sâu phao là phiến lá có xuất hiện những lớp biểu bì trắng giống như bậc thang, lá đứt ngang ngọn phẳng như được cắt bằng kéo. – Sâu phao đục bẹ: sử dụng hai đoạn của phiến lá lúa ghép lại thành phao, đục xuyên qua bẹ gây hại bên trong thân lúa, vì vậy khó phát hiện triệu chứng, khi phát hiện cũng là lúc cây lúa đã héo, khi nhổ cây lúa bị hại lên quan sát ta nhận thấy phần bẹ lúa bị đục thủng lổ chổ. Với đặc tính gây hại như trên, nên đối tượng sâu phao đục bẹ được coi là đối tượng gây hại nghiêm trọng trên ruộng lúa.

5.2 Biện pháp phòng trừ Do sâu phao đục bẹ di chuyển bằng phao, nên sẽ di chuyển theo độ dốc của ruộng lúa ngập nước từ nơi cao đến nơi thấp, vì vậy mức độ thiệt hại sẽ tập trung cao ở đất trũng. Khi phát hiện có sự hiện diện của sâu phao đục bẹ, cần tháo cạn nước và xử lí thuốc hoá học ở nơi trũng của ruộng lúa bằng các loại thuốc trừ sâu có tính lưu dẫn như Padan 95, Vitako3g, Kinalux 25EC…

6.1 Đặc tính gây hại Ấu trùng và thành trùng sinh sống và hút nhựa cây nơi gốc lúa, mật số cao có thể làm cho cây lúa mất dinh dưỡng và héo cây ( gọi là hiện tượng cháy rầy), ngoài ra Rầy Nâu còn là tác nhân lan truyền bệnh siêu vi khuẩn như lúa cỏ, lùn xoắn lá và vàng lùn rất nguy hiểm ( chưa có thuốc trị). Các thế hệ Rầy có thể liên tục gây hại kéo dài từ giai đoạn mạ cho đến lúc lúa chín.

6.2 Những nguyên nhân làm mật số Rầy bùng phát: – Sử dụng các loại nông dược phổ rộng ở giai đoạn đầu 10-25 ngy sau khi gieo làm cho thiên địch bị tiêu diệt gây mất cân bằng sinh thái. – Sử dụng phân bón dư thừa, nhất là phân đạm. – Mật độ gieo sạ dày, tạo bóng râm và ẩm độ quanh gốc lúa cao.

6.3 Biện pháp phòng trừ: Biện pháp canh tác: – Kéo hàng hoặc sạ thưa với số lượng giống 120 – 130kg/ha. – Không bón thừa đạm, tốt nhất là bón theo bảng so màu lá lúa. Biện pháp hoá học: Phun thuốc hoá học (Chess15g, Ram15g,Gepa15g, Osin 6.5g) khi rầy ở giai đoạn ấu trùng trưởng thành ( màu nâu, chưa có cánh), khi mật số nhiều hơn 1 con/chồi. Chỉ phun thuốc khi lượng Rầy đạt mật số như trên ( đối với rầy không mang mầm bệnh) và phun ngừa khi xung quanh xuất hiện bệnh siêu vi khuẩn do Rầy Nâu lan truyền.

7. Nhện gié: – Triệu chứng: Nhện sống trong bẹ lá lúa, chích hút nhựa. Khi mật độ cao, tạo ra những sọc dài màu tím hoặc nâu chạy dọc theo bẹ lúa (bệnh cạo gió), mật độ cao làm cho bông lúa bị lem lép nặng, lúa không vào chắc được (bông bị đơ), gây hại nặng trên lúa thơm đặc sản. – Điều kiện phát triển và bộc phát, khí hậu khô hạn, nắng nóng kéo dài. – Phòng trừ: Đối với lúa thơm đặc sản ở vụ Hè Thu nên phun thuốc trước khi phát hiện thấy triệu chứng cạo gió, vào 02 giai đoạn cây lúa được 35 – 40 NSKS và lúa trước khi trổ 50 – 55 NSKS bằng một trong các loại thuốc Kinalux 25EC, Nissorun 5EC,…phun từ 3 – 4 bình16 lít/1000 m2.

8. Bệnh đạo ôn (cháy lá) 8.1 Đặc tính Bệnh do nấm Pyricularia Oryzea sp. Bệnh phát triển nhanh trong điều kiện ẩm độ cao 85-90%, nhiệt độ mát từ 18-24OC và trên các ruộng dư đạm, gieo sạ dầy. Bệnh có thể lây lan nhanh và phát triển thành dịch gây hại nghiêm trọng, đặc biệt nhất là khi trời có nhiều sương mù, ruộng bón thừa đạm, canh tác giống nhiểm thì bệnh cháy lá sẽ xảy ra. Vết bệnh điển hình dạng hình thoi như mắt én có tâm màu xám, tấn công ở các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Trên lá làm lúa bị lụi chết ( bệnh bả trầu ), trên cổ lá gây thối cổ bẹ lá cờ, trên thân lúa làm thối đốt thân lúa, trên gié lúa làm thối cổ gié, thối cổ bông lúa và trên hạt gây lem lép hạt. 8.2 Biện pháp phòng trị Thường xuyên thăm đồng để phát hiện bệnh. Khi thấy có vết bệnh điển hình đầu tiên (vết bệnh hình mắt én, tâm xám, có viền nâu) để phòng trị kịp thời. Tốt nhất nên phun khi bệnh vừa xuất hiện và thay đổi thuốc BVTV ở mổi lần phun. Có thể sử dụng một trong cac loaii thuốc sau : Fuan, One Over, Trizole, Kitazin, Rabcide, Kasai, Hagro – Blast, Filia,Vista, Beam, Ninja… Chú ý khi lúa bị bệnh cháy lá phải ngưng bón phân đạm, không phun các loại phân bón lá và luôn phải giữ ruộng đủ nước, tránh để ruộng khô. Có thể phun kết hợp thuốc trị bệnh cháy lá với thuốc trị rầy nâu, sâu cuốn lá để giảm chi phí, phun từ 3-4 bình 16 lít/1000m2. Chú ý: Giữ nước trong ruộng khi lúa bị bệnh.

9. Bệnh Đốm vằn: 9.1 Đặc tính gây hại:

Bệnh do Nấm gây ra, những hạch Nấm lưu tồn trong đất hoặc trôi nổi trong môi trường nước, gặp lúc điều kiện thuận lợi chúng tấn công bắt đầu từ gốc hoặc bẹ lá lúa và phát triển