Lan Hài Đài Cuộn Paphiopedilum Appletonianum (Lan Hài Táo)
--- Bài mới hơn ---
Tên Việt Nam: Lan hài đài cuốn, Hài cánh sen, Hài đài cuốn, Lan hài appleton, Vệ hài đài trắng, Vệ hài apleton, hài đài cuộn, lan hài đài cuộn, Lan hài đài cuốn, lan hài táo, hài đài
Tên Latin: Paphiopedilum appletonianum
Đồng danh: Paphiopedilum appletonianum (Gower) Rolfe, 1896. Cypripedium appletonianum Gower, 1893. Paphiopedilum appletonianum var. poyntzianum (O’Brien) Pfitz. 1903.
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Nhóm: Lan đất.
Lan hài đài cuộn Paphiopedilum appletonianum
Cây mọc thành bụi nhỏ trên đất mùn. Thân rất ngắn, chìm dưới đất. Lá hình thuôn, dài tới 22cm, rộng 2 – 4cm, xếp 2 dãy, đầu nhọn lệch, màu lục bóng, mặt trên có nhiều đốm nhỏ màu lục nhạt. Cụm hoa thường có một hoa, có cuống chung màu đỏ, dài 17 – 45cm, mảnh, phủ lông ngắn. Lá bắc hai, 1 lá to, dài 3 – 4cm, 1 lá nhỏ, hình mác nhọn.
Hoa màu tím lục, đường kính 8 – 10cm. Lá đài trên hình trứng rộng, màu lục với các chấm màu hồng ở gốc, dài 3,5 – 3,8cm, mép ở phần trên quăn vào trong, méop ở phần dưới quăn ra ngoài. Lá đài dưới hình trứng, rất nhỏ, màu lục nhạt, có 3 răng nhỏ ở đỉnh.
Cánh hoa hình thìa, dài 5 – 5,5cm, rộng 2,5cm, thuôn, đỉnh có 2 – 3 răng nhỏ, từ gốc ra đến giữa mép lượn sóng nhăn nheo, có 13 – 14 chấm màu nâu thẫm, đầu có màu tím hồng. Cánh môi hình mũ sâu, màu tím lục, dài 4cm, mép màu vàng lục, có vài vết lục ở phía trước, mặt trong có lông, miệng có 4 thùy hình tam giác. Nhị lép gần hình tròn, dài 0,7cm, có đầu lõm.
Mùa hoa vào tháng 1 – 2. Tái sinh bằng hạt và chồi.
Là đối tượng bảo vệ trong hệ sinh thái tự nhiên của một số khu rừng cấm ở Đà Lạt. Ngoài ra cần gấp rút thu thập cây sống để trồng trong các vườn thực vật để giữ nguồn gen và nhân giống làm cảnh.
Nguồn Sinh vật rừng Việt Nam
Đặc điểm nhận dạng: Cỏ lâu năm, có 4 – 6 lá, mọc xoè ra. Lá hình thuôn – bầu dục, cỡ 15 – 25 x 2 – 4 cm, cả 2 mặt loang lổ các khoang màu lục nhạt và lục thẫm. Cụm hoa có cuống dài 20 – 50 cm, mảnh, thường mang 1 hoa. Lá bắc hình mác, dài cỡ 1,5 – 2,1 cm, mép có lông. Hoa rộng 6 – 10 cm, hơi có lông ở mặt ngoài lá đài; lá đài ở gần trục hoa màu lục nhạt với gân dọc màu lục thẫm, hình trứng, cỡ 2,7 – 4,5 x 2 – 3,2 cm; lá đài kia cùng màu, hình bầu dục, cỡ 2 – 3 x 1 – 1,5 cm; cánh hoa màu lục ở phần dưới với nhiều chấm màu đỏ thẫm, ở phần trên chuyển dần thành màu tía – hồng, hình thìa, cỡ 4,4 – 5,8 x 1,2 – 1,8 cm; môi màu nâu tía – nhạt với mạng gân thẫm hơn và mép màu nhạt hơn, dài cỡ 3,6 – 4,6 cm; nhị lép màu vàng, hình trứng ngược rộng, cỡ 0,7 – 0,9 x 0,8 – 0,9 cm; bầu dài 3 – 6 cm, có lông.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 3 – 5. Tái sinh bằng hạt. Mọc dưới tán rừng nguyên sinh rậm thường xanh nhiệt đới mưa mùa hỗn giao cây lá rộng – cây lá kim trên núi đá granit, ở độ cao 900 – 1900 m, thành nhóm nhỏ trên đất giàu mùn ở sườn gần đỉnh núi.
Thừa Thiên – Huế (Phú Lộc: núi Bạch Mã), Đà Nẵng (Bà Nà), Kontum (Đắk Glei: núi Ngọc Linh; Kon Plông: Măng Đen, Măng Cành), Đắk Lắk (Krông Bông: núi Chư Yang Sinh), Khánh Hòa (núi Hòn Giao), núi Bì Đúp thuộc các tỉnh Ninh Thuận và Lâm Đồng.
Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaixia.
Loài Hài khá hiếm, hoa có màu sắc khá đẹp nên được ưa chuộng để trồng làm cảnh làm đa dạng bộ sưu tập Hài cảnh.
Loài có khu phân bố không hẹp, nhưng nơi cư trú bị chia cắt rải rác với số lượng cá thể không nhiều. Từ vài năm gần đây bắt đầu bị thu hái để bán trồng làm cảnh chủ yếu ở trong nước. Mức độ thu hái không mạnh mẽ như đối với hầu hết các loài Hài khác, nên mới ở mức sắp bị tuyệt chủng.
--- Bài cũ hơn ---