Cập nhật thông tin chi tiết về Sản Phẩm: Chế Phẩm Sinh Học Bima (Trichoderma) mới nhất trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Trong những năm gần đây, cùng với xu hướng phát triển một nền nông nghiệp sạch và bền vững, các loại phân bón – thuốc bảo vệ thực vật hữu cơ hoặc có nguồn gốc sinh học được đề cao, tập trung nghiên cứu và phát triển. Cùng với chức năng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất các chế phẩm sinh học phục vụ nông nghiệp, Trung tâm Công nghệ sinh học chúng tôi đã nghiên cứu và sản xuất thành công chế phẩm sinh học BIMA có chứa vi nấm Trichoderma là loại nấm đối kháng có tác dụng cao trong việc thúc đẩy quá trình phân huỷ chất hữu cơ và có nhiều tác dụng, được dùng cho các loại cây trồng
- Chống được các loại nấm bệnh cây trồng gây bệnh thối rễ, chết yểu, xì mủ,… do các nấm bệnh gây nên (Rhizoctonia solani, Fusarium solani, Phytophtora, Sclerotium rolfsii, …) - Tạo điều kiện tốt cho vi sinh vật cố định đạm sống trong đất phát triển - Sinh tổng hợp các enzyme cellulase, chitinase, protease, pectinase, amlylase nên có khả năng phân giải tốt các chất xơ, chitin, lignin, pectin trong phế thải hữu cơ thành các đơn chất dinh dưỡng, tạo điều kiện cho cây hấp thu được dễ dàng - Kết hợp với phân hữu cơ có tác dụng cải tạo đất xốp hơn, chất mùn nhiều hơn, đất trồng có độ phì cao hơn. - Hạn chế việc sử dụng các phân bón hoá học và thuốc trừ sâu hoá học độc hại. - Có thể sử dụng kết hợp với một số chế phẩm vi sinh khác như biolactyl, subtyl, … để sản xuất chế phẩm Microfost phân hủy phân hầm cầu, và xử lý đáy ao hồ nuôi tôm cá, khử mùi hôi ở bãi phân, chuồng trại, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường; phối trộn để sản xuất phân hữu cơ vi sinh, phân hữu cơ sinh học, tăng cường khả năng chống nấm bệnh gây hại hệ thống rễ cây trồng và cải tạo đất. Đặc tính về sản phẩm: 1. Thành phần: * Các chủng nấm Trichoderma: 5×106 bào tử/gam * Hữu cơ: 50%; Độ ẩm < 30%. 2. Công dụng: - Chứa nấm đối kháng Trichoderma có khả năng tiêu diệt và khống chế ngăn ngừa các loại nấm bệnh hại cây trồng gây bệnh xì mủ, vàng lá thối rễ, chết yểu, héo rũ như: Rhizoctonia solani, Fusarium, Pythium, Phytophthora sp., Sclerotium rolfsii,… - Tạo điều kiện tốt cho vi sinh vật cố định đạm phát triển sống trong đất trồng. Kích thích sự tăng trưởng và phục hồi bộ rễ cây trồng. - Phân giải tốt các chất xơ, chitin, lignin, pectin … trong phế thải hữu cơ thành các đơn chất dinh dưỡng, giúp cho cây hấp thu được dễ dàng. - Kết hợp với phân hữu cơ có tác dụng cải tạo đất xốp hơn, chất mùn nhiều hơn, tăng mật độ côn trùng có ích và giữ được độ phì của đất. 3. Hướng dẫn sử dụng 3.1- Bón trực tiếp cho cây trồng
Trong những năm gần đây, cùng với xu hướng phát triển một nền nông nghiệp sạch và bền vững, các loại phân bón – thuốc bảo vệ thực vật hữu cơ hoặc có nguồn gốc sinh học được đề cao, tập trung nghiên cứu và phát triển. Cùng với chức năng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất các chế phẩm sinh học phục vụ nông nghiệp, Trung tâm Công nghệ sinh học chúng tôi đã nghiên cứu và sản xuất thành công chế phẩm sinh học BIMA có chứa vi nấm Trichoderma là loại nấm đối kháng có tác dụng cao trong việc thúc đẩy quá trình phân huỷ chất hữu cơ và có nhiều tác dụng, được dùng cho các loại cây trồng- Chống được các loại nấm bệnh cây trồng gây bệnh thối rễ, chết yểu, xì mủ,… do các nấm bệnh gây nên (, …)- Tạo điều kiện tốt cho vi sinh vật cố định đạm sống trong đất phát triển- Sinh tổng hợp các enzyme cellulase, chitinase, protease, pectinase, amlylase nên có khả năng phân giải tốt các chất xơ, chitin, lignin, pectin trong phế thải hữu cơ thành các đơn chất dinh dưỡng, tạo điều kiện cho cây hấp thu được dễ dàng- Kết hợp với phân hữu cơ có tác dụng cải tạo đất xốp hơn, chất mùn nhiều hơn, đất trồng có độ phì cao hơn.- Hạn chế việc sử dụng các phân bón hoá học và thuốc trừ sâu hoá học độc hại.- Có thể sử dụng kết hợp với một số chế phẩm vi sinh khác như biolactyl, subtyl, … để sản xuất chế phẩm Microfost phân hủy phân hầm cầu, và xử lý đáy ao hồ nuôi tôm cá, khử mùi hôi ở bãi phân, chuồng trại, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường; phối trộn để sản xuất phân hữu cơ vi sinh, phân hữu cơ sinh học, tăng cường khả năng chống nấm bệnh gây hại hệ thống rễ cây trồng và cải tạo đất.* Các chủng nấm: 5×10bào tử/gam* Hữu cơ: 50%; Độ ẩm
Cây trồng Liều lượng Cách bón
Bầu ươm cây con 1 – 2 kg/1m3giá thể ươm cây -Trộn đều với giá thể ươm trước khi vô bầu
Cây rau màu (Cà chua, dưa leo, dưa hấu, khổ qua ớt, rau cải các lọai…) 3 – 6 kg/1000 m2 -Trộn với phân hữu cơ để bón đất trước khi trồng. -Bón thúc bổ sung 1 – 2 lần/1 vụ
Cây công nghiệp ( cà phê, tiêu, điều) Cây ăn trái (Sầu riêng, cam, quýt, bưởi, xoài…) 4 – 8 kg/1000 m2 -Trộn với phân hữu cơ bón 1 – 2 lần/ năm – Bón trực tiếp vào xung quanh gốc cây.
* Có thể dùng để tưới: hoà 1 kg chế phẩm BIMA với 30 lít nước. 3.2. Quy trình ủ phân chuồng, xác bã thực vật - Cứ 3–4 kg chế phẩm BIMA; 20 – 30 kg super lân trộn đều với 1 tấn phân chuồng, xác bã thực vật. - Phun dung dịch urê (1 kg urê/100 lít nước ) vào đống ủ cho ướt đều, độ ẩm đạt 50–55% (dùng tay vắt chặt hỗn hợp trộn, thấy nước rịn ra là được) - Đảo trộn và đậy bạt, sau 4–5 ngày, nhiệt độ sẽ lên khoảng 60oC. Tiến hành đảo trộn. Nếu thấy khô, phun nước vào để tạo độ ẩm. - Sau 25 – 30 ngày, đảo lại 1 lần, phun nước để đảm bảo độ ẩm 50–55%. Nếu phân chưa hoai, ủ tiếp đến 30 ngày sau thì phân hoai hoàn toàn, có thể đem sử dụng. - Sản phẩm phân hữu cơ thu được có thể trộn với phân NPK, urê, super lân, kali và các lọai tro trấu. Hiện nay sản phẩm chỉ có bán trực tiếp tại: Trung tâm Công nghệ Sinh học TP.HCM: Địa chỉ: Số 2374, Quốc lộ 1, khu phố 2, phường Trung Mỹ Tây, quận 12, TP.HCM. Điện thoại: 08.38917832
* Có thể dùng để tưới: hoà 1 kg chế phẩm BIMA với 30 lít nước.- Cứ 3–4 kg chế phẩm BIMA; 20 – 30 kg super lân trộn đều với 1 tấn phân chuồng, xác bã thực vật.- Phun dung dịch urê (1 kg urê/100 lít nước ) vào đống ủ cho ướt đều, độ ẩm đạt 50–55% (dùng tay vắt chặt hỗn hợp trộn, thấy nước rịn ra là được)- Đảo trộn và đậy bạt, sau 4–5 ngày, nhiệt độ sẽ lên khoảng 60oC. Tiến hành đảo trộn. Nếu thấy khô, phun nước vào để tạo độ ẩm.- Sau 25 – 30 ngày, đảo lại 1 lần, phun nước để đảm bảo độ ẩm 50–55%. Nếu phân chưa hoai, ủ tiếp đến 30 ngày sau thì phân hoai hoàn toàn, có thể đem sử dụng.- Sản phẩm phân hữu cơ thu được có thể trộn với phân NPK, urê, super lân, kali và các lọai tro trấu.
Sử Dụng Chế Phẩm Sinh Học Trichoderma Vào Sản Xuất Lúa
Sử dụng chế phẩm sinh học Trichoderma vào sản xuất lúa
Sản xuất nông nghiệp sạch, đảm bảo an toàn thực phẩm và thân thiện với môi trường đang là mục tiêu phấn đấu của ngành nông nghiệp nói chung và người nông dân nói riêng. Một trong những biện pháp hữu hiệu để sản xuất nông nghiệp sạch là ứng dụng rộng rãi các chế phẩm sinh học, sử dụng phân hữu cơ vi sinh nhằm thay thế các hoá chất bảo vệ thực vật và các loại phân hoá học có tác động xấu đến môi trường.
Với thực trạng hiện nay trong sản xuất lúa, rơm rạ sau khi thu hoạch được người dân sử dụng một phần làm thức ăn dự trữ cho trâu bò, ủ phân hoặc làm nguyên liệu trồng nấm…Tuy nhiên, đã có một phần lớn lượng rơm rạ để lại trên mặt ruộng và được xử lý bằng cách đốt. Phương pháp này sẽ làm ô nhiễm môi trường, làm tăng phát thải khí nhà kính, đặc biệt gây mất cân bằng hệ sinh thái đồng ruộng. Vì vậy, việc xử lý và sử dụng hiệu quả nguồn rơm, rạ sau thu hoạch đang là vấn đề được nhiều địa phương, đơn vị quan tâm. Việc đưa chế phẩm sinh học Trichoderma để xử lý rơm rạ được đánh giá là một trong những phương pháp đem lại hiệu quả, thân thiện với môi trường.
Việc ứng dụng kỹ thuật dùng chế phẩm sinh học Trichoderma để xử lý rơm rạ vừa trả lại phụ phẩm cho đồng ruộng, vừa không bị mất phân trong đất, đồng thời còn tăng độ màu mỡ của đất và tiết kiệm chi phí phân bón. Quan trọng hơn, khi rơm rạ hoai mục trở thành phân hữu cơ có tác dụng như lân sẽ kết hợp với các độc chất phèn làm cho chúng không gây độc cho cây lúa. Nấm Trichoderma phân giải nhanh gốc rạ làm cho cây lúa không bị ngộ độc vì axit hữu cơ.Không những thế phương pháp sử dụng chế phẩm Tricoderma còn rất an toàn cho người sử dụng và dễ dàng thực hiện.
Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp đang là xu thế; đặc biệt là các phương pháp thân thiện với con người và môi trường. Việc sử dụng chế phẩm sinh học Tricoderma giúp bà con tiết kiệm được chi phí mà hiệu quả đem lại rất to lớn./.
Chế Phẩm Sinh Học Trong Nuôi Trồng Thủy Sản
Chế phẩm sinh học và cơ chế hoạt động Cạnh tranh loại trừ vi khuẩn gây bệnh
Thuật ngữ chế phẩm sinh học (probiotics) thường được định nghĩa là các vi khuẩn có lợi cho vật chủ. Theo Fuller (1989), chế phẩm sinh học là sự bổ sung một loại thức ăn vi sinh vật sống có tác dụng có lợi cho vật chủ qua việc cải tiến sự cân bằng vi sinh hệ trong đường ruột của vật chủ. Trong nuôi trồng thủy sản, chế phẩm sinh học thường được sử dụng như một phương tiện kiểm soát dịch bệnh, bổ sung các chất kháng khuẩn,…, tuy nhiên, việc hiểu cơ chế hoạt động của chế phẩm sinh học còn rất hạn chế. Theo một vài công trình nghiên cứu gần đây chế phẩm sinh học được hoạt động theo một số khía cạnh sau:
Tạo ra các hoạt chất ức chế
Chế phẩm sinh học có khả năng bám dính và xâm chiếm bề mặt niêm mạc ruột, do vậy tạo ra cơ chế bảo vệ chống lại mầm bệnh qua việc cạnh tranh điểm bám và thức ăn.
Tăng cường hệ miễn dịch của vật nuôi
Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh các dòng chế phẩm sinh học sản sinh ra các chất diệt khuẩn chống lại các mầm bệnh thông thường trên cá như Enterococcus durans, Escherichia coli, Micrococcus luteus and Pseudomonas aeroginosa.
Tầm quan trọng của chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản Tăng cường sức khỏe và ngăn chặn mầm bệnh
Các chế phẩm sinh học có thể kích thích hệ miễn dịch của vật nuôi. Các chất kích thích miễn dịch khác nhau tùy theo môi trường và cách sử dụng. Các chất dẫn xuất nhất định như polysaccharides, lipoproteins, nucleotides and ß-glucans có khả năng làm tăng bạch huyết cầu bằng cách kích hoạt đại thực bào. Việc sử dụng Bacillus sp đã được chứng minh có hiệu quả trong việc phòng bệnh trên vật nuôi bằng cách kích hoạt hệ miễn dịch dịch và hệ miễn dịch tế bào trong nuôi tôm sú (Rengpipat et al, 2000).
Trong một thời gian dài, các chất kháng sinh đã được sử dụng để ngăn ngặn bệnh dịch trong nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh gây ra nhiều vấn đề như dư thừa chất kháng sinh trong các sản phẩm thủy sản, tạo ra các cơ chế kháng khuẩn cũng như làm mất cân bằng các men tiêu hóa trong đường ruột, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của vật nuôi. Hơn nữa, nhu cầu của con người đối với các sản phẩm thủy sản sạch và an toàn trên thế giới ngày càng cao. Do vậy, việc sử dụng chế phẩm sinh học là một phương pháp hữu hiệu trong việc ngăn chặn mầm bệnh và kiểm soát dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản.
Chế phẩm sinh học có khả năng sản sinh ra các chất hóa học có tác dụng diệt các vi khuẩn gây bệnh bám trên thành ruột của vật chủ, do vậy có thể coi chế phẩm sinh học là một rào cản hữu hiệu ngăn chặn sự phát triển của mầm bệnh.
Cải thiện hệ tiêu hóa
Ngoài ra, chế phẩm sinh học hay các “vi khuẩn có lợi” còn có khả năng cạnh tranh vị trí bám và thức ăn trong thành ruột với các vi sinh vật gây bệnh, không cho phép các vi sinh vật này bám vào cơ thể vật nuôi, nhờ vậy giúp ngăn ngừa dịch bệnh, đảm bảo sức khỏe cho vật nuôi.
Cải thiện chất lượng nước
Chế phẩm sinh học là nguồn dinh dưỡng và enzyme cho bộ máy tiêu hóa của vật nuôi. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế phẩm sinh học có ảnh hưởng tích cực đến quá trình tiêu hóa của các vật nuôi bởi vì các dòng chế phẩm sinh học sản xuất ra các en-zim ngoại bào như as protease, amilaza, lipaza và cung cấp các dưỡng chất phát triển cần thiết như vitamin, axit béo, axit amin,… Trong nuôi cá, các vi khuẩn vi sinh như Bacteroides và Clostridium sp đã cung cấp dinh dưỡng cho cá, đặc biệt là cung cấp các axit béo và vitamin. Ngoài ra, một số vi khuẩn có thể tham gia vào quá trình tiêu hóa của động vật hai mảnh vỏ bằng cách sản xuất ra các enzyme ngoại bào như protease, amilaza, lipaza và cung cấp dưỡng chất phát triển cần thiết như vitamin, axit béo, axit amin.
Hiệu quả của chế phẩm sinh học trong sinh sản của các loài nuôi
Chế phẩm sinh học còn giúp ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm trong ao nuôi. Các vi sinh vật có lợi giúp phân hủy các chất hữu cơ, góp phần làm giảm thiểu việc hình thành các lớp bùn và chất cặn bã, nhờ vậy chất lượng nước trong ao nuôi được cải thiện, làm tăng số lượng của động vật phù du, giảm mùi hôi, từ đó tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, sử dụng chế phẩm sinh học sẽ góp phần làm giảm việc sử dụng các hóa chất, kháng sinh trong phòng và trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản, đảm bảo sản xuất sản phẩm an toàn cho sức khỏe con người và góp phần phát triển ngành nuôi trồng thủy sản bền vững.
Hạn chế của việc sử dụng chế phẩm sinh học
Trong nuôi trồng thủy sản, các loài nuôi đòi hỏi một chế độ dinh dưỡng cao, do vậy, khả năng sinh sản phụ thuộc vào nồng độ lipid, protein, axit béo, vitamin C, vitamin E phù hợp. Hơn nữa, mối quan hệ giữa các thành phần này ảnh hưởng đến quá trình trình sinh sản như rụng trứng, thụ tinh, sinh sản và sự phát triển của ấu trùng. Thực tế, có nhiều trang trại cải thiện dinh dưỡng cho đàn cá bố mẹ bằng cánh cho chúng ăn các phụ phẩm thủy sản như mực, trai, nhuyễn thể hai mảnh vỏ nhỏ hay phụ phẩm kết hợp với thức ăn công nghiệp. Việc sử dụng các sản phẩm thủy sản chưa qua chế biến này thường không cung cấp lượng dinh dưỡng cần thiết cho cá bố mẹ và làm tăng nguy cơ lây bệnh sang cá bố mẹ và cá con như các ký sinh trùng, vi khuẩn và vi rút. Vì vậy, chế phẩm sinh học được thêm vào thức ăn hay thả xuống ao để ngăn chặn nguy cơ lây bệnh và ảnh hưởng tích cực đến sinh sản của loài nuôi.
Triển vọng tương lai
Việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản nhằm hạn chế tối đa khả năng sử dụng kháng sinh trong việc phòng và trị bệnh thủy sản là khuynh hướng đúng, nhằm tạo ra các sản phẩm an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng và hướng đến một ngành nuôi trồng thủy sản bền vững. Tuy nhiên, chế phẩm sinh học là một công cụ để phòng ngừa dịch bệnh, không phải để trị bệnh. Chúng có thể có hiệu quả tốt khi được áp dụng trong hệ thống trao đổi nước tĩnh và chỉ ngay sau khi nước được khử trùng. Trong quá trình áp dụng chế phẩm sinh học, không nên dùng các hóa chất hay thuốc để điều trị các bệnh khác bởi vì chế phẩm sinh học dễ dàng bị các hóa chất hay thuốc phá hủy, do vậy các vi khuẩn có ích không phát triển được. Hiện nay, hiệu quả việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản chỉ được khẳng định đối với các trường hợp sử dụng trong điều kiện môi trường được kiểm soát tốt. Trường hợp ở các ao nuôi ngoài trời, điều kiện môi trường có biến động lớn thì hiệu quả sử dụng của chế phẩm sinh học chưa được chứng minh.
Mặc dù các nghiên cứu cho thấy chế phẩm sinh học có triển vọng lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản, tuy nhiên việc sử dụng hiệu quả chế phẩm sinh học còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Nhiều câu hỏi vẫn chưa có lời giải xoay quanh việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản. Liệu chế phẩm sinh học là thức ăn hay chúng cạnh tranh với các vi khuẩn có hại? Liệu chế phẩm sinh học có trở thành mầm bệnh không? Hơn nữa, việc áp dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản có thể làm tăng chi phí sản xuất thủy sản.
Tuy nhiên, xét trong dài hạn, nếu được áp dụng thành công, lợi ích mà chế phẩm sinh học đem lại là rất lớn. Nó không những giúp tăng sản lượng thủy sản mà quan trọng hơn là giúp phát triển một ngành nuôi trồng thủy sản bền vững, sản xuất ra các sản phẩm thủy sản sạch và an toàn cho người tiêu dùng. Ngoài ra, do một số loại kháng sinh dùng trong nuôi trồng thủy sản bị cấm sử dụng nên việc ứng dụng chế phẩm sinh học có thể ngày càng được các nhà sản xuất thủy sản quan tâm hơn.
Chế Phẩm Sinh Học Là Gì? Vai Trò Của Chế Phẩm Sinh Học
1. Chế phẩm sinh học là gì?
Chế Phẩm Sinh Học là những sản phẩm được điều chế ra từ sinh học với những mục đích khác nhau, ở Việt Nam Chế phẩm sinh học được sản xuất phục vụ cho nhu cầu nông nghiệp mà chúng ta có thể hay bắt gặp như: Phân sinh học, thuốc trừ sâu sinh học phục vụ cho cây trồng, đệm lót sinh học cho chăn nuôi… Ngoài ra còn rất nhiều chế phẩm sinh học khác mà bạn đọc có thể tìm hiểu thêm.
Khởi nguồn
Năm 1971 Sperti định nghĩa Probiotic mô tả chất chiết xuất từ các lớp biểu mô có thể dùng để kích thích sự tăng trưởng của vi sinh vật.
Đến năm 1974 Parker đã sửa lại định nghĩa về Probiotic, là “sinh vật và các ‘ chất‘ của vi sinh vật , góp phần cân bằng lại vi khuẩn đường ruột”. Tuy nhiên, định nghĩa này sử dụng Probiotic nói đến vi sinh đường ruột nhưng lại bao gồm ‘ chất ‘ lại mang thêm một ý nghĩa rộng mà trong đó sẽ bao gồm cả thuốc kháng sinh.
Trong một nỗ lực để cải thiện các định nghĩa, đến năm 1989, Fuller đã định nghĩa lại probiotics như ‘Sự bổ sung thức ăn vi khuẩn sống trong đó có lợi ích ảnh hưởng đến vật chủ bằng cách cải thiện sự cân bằng với vi khuẩn đường ruột của nó’.
Định nghĩa được sửa đổi này nhấn mạnh sự cần thiết của Probiotic (Chế phẩm sinh học).
Chúng ta thường hay nghĩ rằng các vi khuẩn giống như cái gì đó có thể gây bệnh. Nhưng cơ thể của mỗi sinh vật đều có đầy đủ các vi khuẩn, cả tốt và xấu, có thể gây bệnh, có thể kháng bệnh. Probiotics được gọi là “tốt” hay vi khuẩn “hữu ích” bởi vì chúng giúp giữ cho đường ruột, hệ tiêu hóa của vật chủ được khỏe mạnh.
Theo một vài công trình nghiên cứu gần đây thì chế phẩm sinh học được hoạt động theo một số khía cạnh như sau:
Khi vật chủ bị mất đi các vi khuẩn “tốt”, chế phẩm sinh học có thể giúp vật chủ bổ sung, thay thế các vi khuẩn tốt của vật chủ trước đó.
Chế phẩm sinh học có thể làm giảm số lượng vi khuẩn “xấu” trong cơ thể của vật chủ.
Chế phẩm sinh học có thể giúp cân bằng các vi khuẩn “tốt” và vi khuẩn “xấu” giúp cho vật chủ được phát triển một cách ổn định nhất.
3. Các chủng loại chế phẩm sinh học:
Có khoảng hơn 50 loài lactobacillus, Chúng được tìm thấy trong hệ tiêu hóa, tiết niệu, và sinh dục… Các loại thực phẩm được lên men (như sữa chua) và thực phẩm bổ sung dinh dưỡng cũng chứa các vi khuẩn này. Lactobacillus đã được sử dụng để điều trị và ngăn ngừa nhiều loại bệnh về hệ tiêu hóa…
Một số vi khuẩn gây men tìm thấy trong các loại thực phẩm bổ sung là acidophilus Lactobacillus, acidophilus DDS L.-1, Lactobacillus bulgaricus, Lactobacillus rhamnosus GG, Lactobacillus plantarium, Lactobacillus reuteri, Lactobacillus salivarius, Lactobacillus casei, Lactobacillus johnsonii, Lactobacillus gasseri…
Có khoảng 30 loài bifidobacteria, chúng tạo nên hầu hết các vi khuẩn lành mạnh trong ruột, xuất hiện trong đường ruột, hệ tiêu hóa của vật chủ ở thời kỳ sinh trưởng. Một số các bifidobacteria được sử dụng như chế phẩm sinh học là bifidum Bifidobacterium, Bifidobacterium lactis, Bifidobacterium longum, Bifidobacterium breve, Bifidobacterium infantis, Bifidobacterium thermophilum, Bifidobacterium pseudolongum…
Ngoài ra còn một số loại vi khuẩn khác như Saccharomyces boulardii, Streptococcus thermophilus, Enterococcus faecium, Leuconostoc,…
– Tăng cường sức khoẻ và ngăn chặn mầm bệnh Trong một thời gian dài, các chất kháng sinh đã được sử dụng để ngăn chặn bệnh dịch trong nuôi trồng thuỷ sản. Tuy nhiên, việc sử dụng khánh sinh gây ra nhiều vấn đề như dư thừa chất khánh sinh trong các sản phấm thuỷ sản, tạo ra các cơ chế kháng khuẩn cũng như làm mất cân bằng các men tiêu hoá trong đường ruột, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của vật nuôi. Hơn nữa, nhu cầu của con người đối với các sản phẩm thuỷ sản sạch và an toàn trên thế giới ngày càng cao. Do vậy, việc sử dụng chế phẩm sinh học là một phương pháp hữu hiệu trong việc ngăn chặn mầm bệnh và kiểm soát dịch bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản.
Chế phẩm sinh học có khả năng sản sinh ra các chất hoá học có tác dụng diệt các vi khuẩn gây bệnh bám trên thành ruột của vật chủ, do vậy có thể coi chế phẩm sinh học là một rào cản hữu hiệu ngăn chặn sự phát triển của mầm bệnh.
Ngoài ra, chế phấm sinh học hay các vi khuẩn có lợi còn có khả năng cạnh tranh vị trí bám vào thức ăn trong thành ruột với các vi sinh vật gây bệnh, không cho phép các vi sinh vật này bám vào cơ thể vật nuôi, nhờ vậy giúp ngăn ngừa dịch bệnh, đảm bảo sức khoẻ cho vật nuôi.
– Cải thiện hệ tiêu hoá Chế phẩm sinh học là nguồn dinh dưỡng và enzyme cho bộ máy tiêu hoá của các vật nuôi. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế phấm sinh học có ảnh hưởng tích cực đến quá trình tiêu hoá của các vật nuôi bởi vì các dòng chế phẩm sinh học sản xuất ra các en-zim ngoại bào như: as protease, amilaza, lipaza,… và cung cấp các dưỡng chất phát triển cần thiết như vitamin, axit béo, axit amin… Trong chăn nuôi thủy sản, các vi khuẩn vi sinh như bacteroides và clostridium sp cung cấp dinh dưỡng cho cá, đặc biệt là cung cấp các axit béo và vitamin. Ngoài ra, một số vi khuẩn có thể tham gia vào quá trình tiêu hoá của động vật hai mảnh vỏ bằng cách sản xuất ra các enzyme ngoại bào như protease, amilaza, lipaza và cung cấp dưỡng chất phát triển cần thiết như vitamin, axit béo, axit amin.
Bạn đang tìm hiểu về chế phẩm sinh học? Bạn muốn thấy được hiệu quả thực tế của chế phẩm sinh học? – Đối với mỗi khách hàng, chúng tôi cần thời gian thực nghiệm chế phẩm sinh học từ 10 – 15 ngày.
Nguồn: As Koi tổng hợp
Bạn đang xem bài viết Sản Phẩm: Chế Phẩm Sinh Học Bima (Trichoderma) trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!