Cập nhật thông tin chi tiết về Nhu Cầu Dinh Dưỡng, Kỹ Thuật Bón Phân Cho Cây Sầu Riêng mới nhất trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Vai trò của các chất dinh dưỡng đối với cây sầu riêng
Cây sầu riêng đặt biệt cần nhiều chất dinh dưỡng hơn một số loại cây trồng khác, tuy nhiên tùy từng giai đoạn phát triển mà nhu cầu đối với mỗi loại dinh dưỡng khác nhau và không phải lúc nào thừa cũng tốt. Để bón phân cho cây sầu riêng đúng kỹ thuật, chúng ta cần nắm vững nhu cầu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng theo từng giai đoạn
Đạm (N): Đây là thành phần quan trọng cho tất cả bộ phận của cây và đặc biệt cần thiết cho sự sinh trưởng dinh dưỡng.
Đạm cần thiết cho sự phát triển của lá, thân cành, hoa, quả, hạt. Do vậy, cần bón đạm đầy đủ cho cây sầu riêng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc 5 đúng (đúng loại, đúng nhu cầu, đúng loại đất, đúng liều lượng và đúng phương pháp), ngoài ra còn phải đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Cây đủ đạm lá xanh tốt, cây phát triển khỏe, quả phát triển đều.
Thiếu đạm: Lá có màu xanh vàng hay xanh noãn chuối. Thiếu nặng lá rụng nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần.
Thừa đạm: Phát triển thân lá mạnh, lá có màu xanh đậm, dễ bị sâu bệnh tấn công, đậu quả ít, rụng quả nhiều, quả phát triển không bình thường như mất gai, nứt quả…
Lân (P): Sầu riêng cần lân tương đối ít. Dạng lân dễ tiêu trong đất thường bị giới hạn bởi việc cố định do các phản ứng hóa học, đặc biệt là ở đất chua. Nên thường xuyên bón phân lân với lượng nhỏ. Cần bón lót phân lân trong hố trước khi trồng để giúp cây tăng trưởng trong giai đoạn ban đầu.
Thiếu lân: Lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và cành chết.
Kali (K): Kali rất quan trọng khi cây ra quả, lượng kali trong quả rất lớn. Bón thường xuyên phân kali rất cần thiết để duy trì năng suất cao và phẩm chất ngon cho sầu riêng. Với đất nhiều K sẽ cản trở sự hấp thu Ca và Mg. Trong trường hợp này cần bón Ca và Mg nhưng không bón K. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không thuận lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại bệnh. Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét.
Thiếu K: Mép lá chuyển màu vàng cam sau tới màu xám nâu và khô, lá rụng nhiều.
Lưu huỳnh (S): Thiếu S, hầu hết lá trên cây chuyển sang màu vàng, xuất hiện những vết như vết bệnh trên lá già. Ở lá non, lúc đầu có màu vàng sáng sau đó chuyển sang màu vàng nhạt, tương tự triệu chứng ở lá già. Lưu huỳnh được bón thông qua phân SA (chứa khoảng 24 % S); phân Super lân (Super lân chứa khoảng 14 % S). …
Ngoài ra, thiếu magiê: phần thịt lá bị vàng và lan dần từ gân chính ra mép lá; thiếu canxi: lá héo vàng từ rìa lá sau lan vào gân chính; thiếu kẽm: các lá và chồi đầu cành không phát triển tốt (rụt đọt), lá không thể nở lớn.
Xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng
Các chất dinh dưỡng có vai trò hết sức quan trọng giúp ổn định và tăng năng suất cho cây. Cây sầu riêng cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng. Thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển không bình thường của cây.
Bón phân cho cây sầu riêng cần chú ý nhu cầu dinh dưỡng của cây tăng theo tuổi cây và mức năng suất. Sầu riêng thu bói có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn cây kiến thiết cơ bản và cây trong vườn ươm. Sầu riêng kinh doanh có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn so với sầu riêng mới thu bói. Năng suất sầu riêng càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn.
Sầu riêng rất cần kali nhưng không nên sử dụng kali clorua (KCl) mà phải sử dụng Kali Sulphate (K2SO4) và trung-vi lượng (TE) vì KCl làm sầu riêng giảm mùi thơm.
Theo nghiên cứu, khi cây sầu riêng cho năng suất quả 6.720 kg đã lấy đi 18,1 kg N, 6,6 kg P2O5, 33,5 kg K2O, 5,4 kg MgO và 2,6 kg CaO.
Đối với sầu riêng tất cả các chất đa lượng và các chất vi lượng như Kẽm, Bo… đều cần thiết cho giai đoạn đậu quả và phát triển quả, trong đó, N, P là cần thiết nhất trong giai đoạn phát triển quả, K là chất dinh dưỡng cần thiết trong giai đoạn sau của sự phát triển quả cho đến khi thu họach.
Lựa chọn loại phân bón
Về cơ bản, có 2 loại phân bón cho cây trồng là phân hữu cơ và phân vô cơ. Mỗi loại phân bón có ưu nhược điểm riêng. Vì vậy bón phân cho cây sầy riêng cần dựa vào đặc điểm của từng loại phân bón, độ màu mỡ của đất và nhu cầu của cây trong từng thời kỳ mà kết hợp sao cho phù hợp
a. Phân hữu cơ
Phân hữu cơ rất cần thiết cho cây sầu riêng phát triển bền vững, vì vậy khi bón phân cho cây sầu riêng cần đảm bảo đủ lượng phân hữu cơ cần thiêt. Các loại phân hữu cơ thường dùng để bón cho sầu riêng như phân gia súc, than bùn, phân ủ các dư thừa thực vật, phân xanh, phân cá…
* Ưu điểm
– Tạo chất đệm, ổn định độ chua (PH) của đất tăng hiệu quả của việc bón phân vô cơ.
– Làm đất tơi xốp, giữ ẩm tốt, tăng độ phì nhiêu.
– Tạo môi trường thuận lợi để vi sinh vật phát triển và hoạt động giúp phân giải các chất dinh dưỡng trong đất để cây dễ hấp thu, làm tăng khả năng kháng bệnh đối với cây trồng.
– Chi phí thấp.
* Hạn chế
– Hiệu quả chậm;
– Cồng kềnh, tốn công vận chuyển;
– Hàm lượng dưỡng chất thấp, không ổn định, khó kiểm soát.
Để nâng cao hàm lượng dinh dưỡng phân chuồng, nên tận dụng các dư thừa thực vật có sẳn để độn vào phân chuồng và ủ phân trước khi sử dụng.
b. Phân vô cơ
Đối với cây sầu riêng cần bón các loại phân vô cơ chứa đạm, lân, kali và một số phân vi lượng. Tùy theo nhu cầu dinh dưỡng ở mỗi giai đoạn phát triển mà lựa chọn các loại phân vô cơ để bón cho phù hợp.
* Ưu điểm của phân vô cơ:
– Đáp ứng nhanh kịp thời nhu cầu của cây.
– Hàm lượng dinh dưỡng thường cao, ổn định và dễ kiểm soát.
– Dễ vận chuyển, dễ sử dụng.
* Hạn chế của phân vô cơ:
– Sử dụng đơn độc lâu ngày đất bị chai cứng, chua, cây hấp thụ kém.
– Hạn chế vi sinh vật phát triển.
Lượng phân bón cho cây sầu riêng
Như đã nói ở trên, bón phân cho cây sầu riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại phân bón, độ màu mở của đất, giai đoạn phát triển của cây, khả năng hấp thụ của cây,… Tuy nhiên theo một số nghiên cứu thì liều lượng khuyến cáo như sau:
– Giai đọan cây con và những năm đầu cho quả: Bón 5 – 10kg phân gà/gốc (hoặc phân hữu cơ đã hoai mục) kết hợp với phân vô cơ theo công thức N:P:K:Mg = 18:11:5:3 hoặc: 15:15:6:4. Liều lượng và số lần bón trong năm như bảng dưới.
Giai đoạn cho quả ổn định: Đối với cây có đường kính tán 5 – 6 m đang phát triển bình thường có thể bón như sau:
Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân hữu cơ hoai mục 20 – 30kg/cây (hoặc phân Humix, Dynamic lifter theo liều lượng khuyến cáo trên bao bì) kết hợp với phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức N:P:K:Mg (18:11:5:3) với liều lượng 2 – 3kg/cây.
Lần 2: Trước ra hoa 30 – 40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N:P:K:Mg (10:50:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.
Lần 3: Khi quả sầu riêng lớn bằng quả chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao theo công thức N:P:K:Mg (12:12:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây.
Lần 4: Trước khi quả chín 1 tháng bón 2 – 3 kg phân như NPK (16-16-8) kết hợp với 1 – 1,5kg phân K2SO4 để tăng chất lượng quả. Nên chú ý, đây là lần bón phân thứ 4 sau khi thu hoạch vụ trước và cũng là lần bón phân cuối cùng của vụ quả năm này, lần bón phân này không bón trễ hơn 1 tháng trước thu hoạch. Bởi vì bón như vậy, sẽ có nhiều nguy cơ làm giảm phẩm chất quả như cơm quả bị sượng, bị nhão. Ngoài ra, còn có thể sử dụng phân bón lá có hàm lượng kali cao để góp phần nâng cao năng suất phẩm chất quả. Có thể phun phân bón lá làm 5 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần, bắt đầu từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 9 sau khi đậu quả.
Kỹ Thuật Bón Phân Cho Sầu Riêng
Nông dân thường không bón phân vào hố trồng sầu riêng khi mới trồng. Lúc này sầu riêng chỉ được chú ý che nắng để cây khỏi bị chết.
Bón phân cho sầu riêng cần chú ý bón nhiều lần trong một năm với lượng phân tăng dần từ khi cây còn nhỏ cho đến khi cây cho quả ổn định. Lượng phân bón bình quân cho sầu riêng như sau:
– Hàng năm bón cho mỗi cây 10-20kg phân hữu cơ.
– Phân vô cơ bón hàng năm cho mỗi cây như sau: 200-400g urê+800-1000g supelân+ 100g KCl hoặc K2SO4 tuỳ thuộc vào tính chất của đất. Có thể bón bổ sung thêm tro bếp.
Có thể dùng phân NPK(15:15:15) để bón với lượng 300-500g cho một cây, chia làm nhiều lần để bón trong một năm.
Cách bón tốt nhất là khi chuẩn bị ra hoa nên bón ít phân N, tăng P và K. Lúc này có thể dùng phân NPK(9:24:24) để bón bằng cách rải đều dưới tán cây, sau đó phủ lớp đất mặt lên.
Khi cây ra qủa cần tăng lượng phân kali. Lúc này có thể sử dụng phân NPK(14:14:24). Bón cho mỗi cây 4-6kg chia ra 3 lần để bón trong một năm.
Ở những nơi có điều kiện có thể thực hiện cách bón như sau:
– Khi sầu riêng trồng được 6,7 năm cần bón cho cây: 1,5 kg urê+ 2kg supe lân+ 2kg KCl.
-Từ năm thứ 8 trở đi cần bón cho mỗi cây: 2-3 kg urê+ 2-3 kg supe lân+2-3 kg KCl+ tro.
– Cách bón: sau mỗi vụ thu hoạch bón: lân, tro, 1/2N và ½ K2O. Số còn lại chia ra bón đón hoa và nuôi quả.
– Số lượng phân cần cho 1 ha sầu riêng là : 110kg N+ 50kg P2O5+ 200kg K2O.
Khuyến nông Việt Nam
Phân bón thích hợp cho sầu riêng 4 năm đầu là phân chuồng mục ủ với lân Văn Điển. Khoảng 40kg phân chuồng cộng với 3kg lân cho một gốc. Đào xa mép tán lá khoảng 40 phân (cỡ 2 gang tay), rải phân đều, sau đó lấp đất và tưới đậm.
Cứ sau 30 – 40 ngày vào mùa mưa bón thêm 0,5 đến 1kg NPK 16-16-8 (loại chuyên dùng cho cây cà phê, ca cao) rải đều xung quanh tán lá. Hạn chế tối đa bón đạm, nhất là đạm sunphát dễ làm cơm sượng.
Sang năm thứ 5 khi cây đã sung sức, cành mập cứng đủ sức đeo trái thì bấm đọt (ngọn) để nuôi cành và tạo bộ tán lý tưởng.
Anh Trần Ngọc Quang, thuộc ấp Hàm Luông, xã Tân Phú, huyện Châu Thành (Bến Tre) có kinh nghiệm bón phân cho sầu riêng:
Khi kết thúc vụ trái, dọn tỉa cành, tạo tán cho thông thoáng, rải phân NPK + với phân chuồng hoai và phủ một lớp đất phù sa khô (đã vựa sẵn trước) trải đều trên mặt liếp.
Đến cuối tháng 8 âm lịch, tiếp tục bón phân NPK + Super lân và tưới nước đôi ba lần cho rễ dễ hấp thụ. Khi cây ra hoa đơm trái, hàng tháng rải NPK và tưới xả.
NNVN, 22/8/2004
Anh Út Lập, ấp Giồng Nâu xã Nhuận Phú Tân, huyện Mỏ Cày (Bến Tre) có kinh nghiệm:
Giai đoạn cây con và những năm đầu cho trái: Cần bón 5-10 kg phân hữu cơ cho mỗi cây kết hợp với phân vô cơ có lượng đạm cao theo công thức N:P:K:Mg là 18:11:5:3 hoặc 15:15:6:4 theo liều lượng và số lần bón như bảng sau:
Giai đoạn đầu cây đã cho trái ổn định: Bón làm 3 lần trong năm như sau:
Lần 1: Sau khi thu hoạch, tỉa cành bón 10-20 kg phân hữu cơ cho mỗi cây kết hợp với phân vô cơ có lượng đạm cao theo công thức N:P:K:Mg là 18:11:5:3 hoặc 15:15:6:4 với lượng 2-3 kg hỗn hợp/gốc, tưới nước nhằm tạo bộ lá màu mỡ, sạch sâu bệnh.
Lần 2: Trước ra hoa 30-40 ngày, thúc ra hoa bằng phân hỗn hợp với lượng phân cao theo công thức N:P:K:Mg là 10:50:17; 02-3 kg hỗn hợp/gốc.
Lần 3: Khi gốc to bằng trái chôm chôm, giúp trái phát triển nhanh và có chất lượng cao bằng phân hỗn hợp với lượng kali cao theo công thức N:P:K:Mg là 12:42:17: 2; 02-3 kg hỗn hợp/gốc.
Ngoài ra, còn có thể sử dụng phân bón lá để góp phần nâng cao năng suất và phẩm chất trái. Nếu sử dụng phân bón lá nhiều đạm sẽ làm giảm phẩm chất trái như cơm bị sượng, bị nhão…
NTNN, 4/11/2003
Anh Huỳnh Văn Phải ở ấp Tân Sơn, xã Ngũ Hiệp, huyện Cai Lậy, Tiền Giang có kinh nghiệm:
Làm liếp đơn rộng 5m, mương rộng 1,5m, chính giữa liếp đắp mô có đường kính 1,2m, cao 0,6m, trồng theo kích cỡ cây cách cây 8m x 8m. Ở giữa mô khoét một lỗ rồi cho vào hố 10 kg hỗn hợp phân hữu cơ hoai gồm phân dơi, trộn tro trấu, xơ dừa + 1kg supe lân + 50g Furadan, đặt cây con vào
Trong năm đầu chỉ ngâm phân để tưới cây. Khi cây đã bén rễ ra đất, pha 1 muỗng canh phân NPK 20-20-15 trong thùng 10 lít nước tưới đều cho mỗi gốc, định kỳ hai tháng tưới một lần, kết hợp dùng thêm phân bón qua lá, thuốc trừ sâu, rầy bệnh nhằm giúp cây phát triển khỏe mạnh.
Đến lúc cây đã được hai năm tuổi thì bắt đầu dùng phân bón gốc, chia làm bốn lần bón trong năm, mỗi lần bón 250g NPK 20-20-15/cây vào các đợt đọt đã già lá.
Khi trái to bằng trái chôm chôm, bón cho mỗi gốc một bao phân gà, vì theo kinh nghiệm phân gà không chỉ cung cấp chất dinh dưỡng nuôi trái mà còn góp phần đáng kể trong việc hạn chế nấm bệnh Phytophthora tấn công (bệnh nguy hiểm nhất trên cây sầu riêng). Về phân hóa học, chỉ sử dụng phân NPK có sunfat kali (K2SO4), vì nếu dùng phân NPK có gốc clorua kali (KCl) bón sẽ làm cho trái giảm phẩm chất, sượng trái. Cụ thể ở giai đoạn này bón cho mỗi gốc khoảng 1kg NPK Con cò 15-15-15, riêng ở những cây mang nhiều trái thì tăng lượng phân lân. Bên cạnh đó, còn tận dụng nguồn phân cá tươi ngâm ủ tưới bổ sung thêm dinh dưỡng nuôi trái, độ khoảng 20 ngày chú tưới một lần.
NNVN 2/6/2004
Qua thực tế sản xuất tại một số địa phương, trên những vườn trồng sầu riêng Monthong có sử dụng nhiều phân hữu cơ, đặc biệt là phân dơi, phân ruốc, phân cá, hạn chế dùng phân hóa học thì màu sắc cơm vàng đậm hơn, thịt mịn hơn (xơ ít), ngọt hơn so với vườn chỉ bón thuần là phân hóa học, đặc biệt là không có trái bị sượng.
NTNN, 11/9/2003 Bón phân khi làm đất:
– Đào hố sâu 0,6m, chiều rộng 0,8m x 0,8m, bón khoảng 1- 2kg vôi sống vào hố. Phơi đất thật khô. Dùng 20- 30kg phân xanh (hay phân chuồng, phân rác, …) đã oai mục và 0,5kg- 1kg phân lân (P2O5) trộn vào đất phơi khô và lấp xuống hố theo thứ tự theo tầng đất (đất ở đáy, ở giữa và lớp đất mặt).
– Đắp thêm một số đất khô có nhiều chất dinh dưỡng như đất vế mặt ruộng, đất phù sa sông rạch …
– Ở vùng đất miền Đông Nam Bộ nếu độ nghiêng lớn hơn 5%, có thể không cần làm mô, chỉ cần cuốc xới cho đất tơi xốp và trộn phân khoáng và phân hữu cơ cho cây trồng mau tốt.
Bón lót:
– Nếu có phân dơi, phân cá, phân hữu cơ hoai mục nên bón một ít vào hố, tùy khả năng mà bón ít nhiều. Trộn sơ cho phân lẫn vào đất. Loại phân có nhiều đạm hay hàm lượng muối trong phân cao thì phảI vùi sâu vào đất để rễ non không bị ngộ độc.
BÓN PHÂN :
Phương pháp cung cấp phân được giới thiệu sau đây dựa vào kinh nghiệm và một số tài liệu khảo của nước ngoài.
A – Nguyên tắc cung cấp phân :
Phân bón bao gồm phân vô cơ (phân hóa học) và phân hữu cơ (phân xanh, phân chuồng, phân ruốc…) cung cấp cho cây trồng là nhằm tăng nguồn dinh dưỡng dự trữ cho cây trong đất. Cây không thể hấp thụ chất dinh dưỡng trực tiếp từ phân (đặc biệt là phân vô cơ) mà phải thông qua yếu tố cơ bản rất đặc biệt là đất và nước.
Mỗi gian đoạn sinh trưởng của cây luôn đi kèm với quá trình sinh lý nhất định. Do vậy, muốn cung cấp phân cho cây có hiệu quả nên tuân thủ nguyên tắc.
1. Bón phân có định kỳ :
Cây còn nhiều chất dinh dưỡng, nhất là lúc ra chồi non, lá non, ra hoa, mang trái. Nên cần bón thúc phân cho cây khi lá đã già hay sau mùa thu hoạch trái và sau đó thường xuyên bón bổ sung. Thời gian từ ra hoa đến trái chín của sầu riêng khoảng 16- 18 tuần. Giai đoạn làm cơm cần nhiều chất dinh dưỡng hơn giai đoạn cuối, nên bón phân trước khi trái hình thành cơm.
2. Bón đúng và bón đủ :
– Mỗi giai đoạn và sinh trưởng nhu cầu chất dinh dưỡng có khác nhau. Cung cấp nhiều đạm cây sẽ giảm ra hoa, trái dễ bị rụng, hương vị phẩm chất giảm.
– Phải cung cấp đủ lượng phân dự trữ trong đất để cây phát triển và có năng suất cao. Thiếu phân cây ngừng sinh trưởng, phát dục không hoàn chỉnh, năng suất kém …
– Ngược lại, cây thừa phân sẽ làm bộ rễ tổn hại, tình trạng nặng cây sẽ bị chết. Bón nhiều phân trong thời gian ngắn ở giai đoạn mang trái sẽ làm rụng trái hàng loạt …Tốt nhất là bón vừa đủ theo định kỳ sinh trưởng của cây.
3. Bón để nuôi cây :
Vào thời điểm đất khô, thiếu nước tưới nếu bón phân sẽ gây lãng phí và có thể gây hại cho cây. Quan trọng nhất là phân đạm, khi bón phân tưới qua một vài lần tưởng rằng phân đã thấm sâu vào đất và cây đã hấp thụ hết. Thực tế, cây chỉ hấp thụ một phần, phần lớn còn lại nếu đất bị khô, khí hậu nóng hoặc nắng lâu ngày đạm chất sẽ bị hốc hơi.
Để phát huy tác dụng của phân bón, khi đã bón phân thì phải tưới một lượng nước vừa đủ và liên tục được giữ ẩm (nhất là vào mùa nắng) để cây hấp thụ được phân và tránh những mất thoát đáng tiếc. Vào mùa mưa, ở những vùng đồng bằng, liếp thường nhỏ, bón phân xong nếu bị mưa to dễ bị rửa trôi (nhất là ở vùng đất có kết cấu bề mặt quá chặt). Do đó, phải tìm cách để cho phân ngấm sâu vào đất.
B – Sử dụng phân hữu cơ : 1. Các loại phân hữu cơ thông dụng :
Phân hữu cơ là các loại phân xanh, phân chuồng, phân ruốc, phân dơi … Phân chuồng, phân rác, phân xanh trước khi sử dụng phải ủ cho hoai mục. Phân chưa hoai mục có nhiều vi sinh vật có hại cho cây trồng hoặc khi các vi sinh vật phân hủy chất hữu cơ để tạo thành chất mùn sẽ sinh nhiệt (có thể lên trên 550C) làm tổn hại bộ rễ.
Phân hữu cơ là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây rất có giá trị. Giúp cải tạo đất rất tốt, làm đất có kết cấu tơi xốp hơn, tăng độ phì của đất (không làm chai đất như phân vô cơ).
2. Cách bón :
a) Dùng phân xanh, phân chuồng bón xung quanh tán cây :
Đào hố ngang 10- 30cm, sâu 10- 30cm xung quanh tán cây. Nếu phân ít có thể đào phân nửa hơn một phần ba tán cây. Cho phân xuống rãnh và lấp đất lại. Nên kết hợp với việc bón phân hóa học, nhất là ở giai đoạn bón thúc, làm cho cây phát triển nhanh hơn và tránh được sự lãng phí do bốc hơi hay bị rửa trôi.
b) Dùng phân cá, phân ruốc, phân dơi :
-Có thể kết hợp với phân xanh, phân chuồng để bón như trên theo định kỳ. Cây chưa cho trái nên bón định kỳ 6 tháng một lần (đầu mùa mưa bón một lần và đầu mùa nắng bón một lần). Cây đã cho trái nên bón vào giai đoạn trước nửa tháng ở đợt thu hoạch trái sau cùng.
-Có thể ngâm với phân hóa học để lấy nước tưới thường xuyên cho cây 10- 15 ngày/lần, giúp cây phát triển nhanh.
+ Có thể dùng lu, khạp, hủ … đựng khoảng 2 giạ phân cá, phân ruốc (có thể trộn thêm phân dơi), 2 kg phân DAP, 200g- 800g phân Kali (nên dùng Sulfat Kali K2SO4) hoặc 2,5kg phân NPK 16.16.8 … đổ nước vào cho ngập và ngâm sau 2 tuần lễ thì sử dụng được. Thỉnh thoảng quậy lên cho mau rã.
+ Dùng khoảng 100cc nước phân (1/3 lon sữa bò) pha với 10 lít nước để tưới cho 5-10 cây con. Nên tưới vào chiều mát và sáng hôm sau, tưới xả lại bằng nước sạch. Cây trồng sau 10 ngày có thể tưới phân được.
Cây lớn tăng lượng phân lên khoảng 50cc (1/2 lon sữa bò) pha 10 lít. Tưới từ 5 lít đến 40- 50 lít cho một cây. Chu kỳ tưới khoảng 1 tháng/ 1 lần.
C – Sử dụng phân hóa học : 1. Cách bón :
Cây con trồng cao khoảng 50cm có thể bón phân hóa học như NPK, DAP hoặc trộn lẫn hỗn hợp Urê, Lân và Kali theo tỷ lệ 3-4-3 cho vùng đất có độ phì nhiêu trung bình ở đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ 2-3-5 cho vùng đất xám hay đất đỏ Bazan. Sầu riêng ở giai đoạn trưởng thành cần nhiều Kali, tùy vùng đất mà xác lập tỷ lệ NPK bón cho hợp lý, lượng phân bón cho cây phải đảm bảo cho nhu cầu tăng trưởng ở các giai đoạn. bảng sau đây chỉ lượng phân sử dụng tương ứng với sự phát triển của cây.
BẢNG 3
(a): Bón vào đầu hay cuối mùa mưa, phải linh động xác định thời điểm bón phân. Để cây ra hoa sớm, nên bón phân lần 1 ngay kghi thu hoạch trái xong, lần 2 trước khi xiết nước làm trái hai tháng.
Nếu cây đã cho trái thì có thể bón 3 lần như sau :
BẢNG 4
Giai đoạn sau khi đậu trái Số lượng phân bón/ lần/ gam
20- 30 ngày 200- 300
60 ngày 400- 500
Sau thu hoạch 600- 10000(b
(b): Cây từ 6 tuổi trở lên lượng phân bón tăng lên từ 1kg cho đến 3kg (gia tăng tỷ lệ thuận với độ rộng của tán cây).
2. Một số qui trình kỹ thuật bón phân nên tham khảo :
a) Tài liệu cây sầu riêng của Lê Thanh Phong, Võ Thanh Hoàng, Dương Minh, Khoa trồng trọt trường Đại Học Cần Thơ- NXB Nông nghiệp- TPHCM năm 1996. Việc bón phân cho mỗi cây qua các năm tuổi được đề nghị như sau :
-Trong năm thứ 1: Bón cho mỗi cây từ 100- 150g N, 50g P2O5 và 50g K2O (tương đương 200- 300g Urêa + 300g Super lân + 100g K2SO4/ gốc). Bón mỗi lần phân nửa vào đầu và cuối mùa mưa.
-Trong năm thứ 2 và 3 : Mỗi năm bón cho cây 200- 300g N, 100g P2O5 và 100g K2O. Bón một lần phân nửa vào đầu mùa mưa và cuối mùa mưa.
– Năm bắt đầu cho trái: Bón cho mỗi cây 500g N, 250g P2O5 và 250g K2O. Có thể chia làm 3 lần bón :
* Lần thứ 1: Bón 1/3 đạm, 1/2 Kali ở giai đoạn trước khi ra hoa.
* Lần thứ 2: Bón 1/3 đạm và 1/2 Kali khi trái có đường kính 10- 15cm.
* Lần thứ 3: Bón 1/3 đạm và toàn bộ số phân lân sau khi thu hoạch trái xong.
– Năm cho trái ổn định: tăng dần lượng phân bón đến 2- 3kg NPK tỷ lệ 2-1-1 hàng năm và cần bón thêm 20- 30kg phân chuồng hoai mục cho mỗi gốc.
Năm thứ 1 và thứ 2 nên pha phân để tưới. Từ năm thứ 3 trở đi nên xới xung quanh gốc để bón (vòng theo tán cây).
b) Tài liệu Phân bón và cách sử dụng của KS Nguyễn Thị Quí Mùi- NXB Nông nghiệp- TPHCM- 1997. Sầu riêng mới trồng ít chú ý đến việc bón phân. Lượng phân hóa học có thể bón cho 1 cây/ năm.
+ 200- 400g Urêa
+ 800- 1.000g Lân Super.
+ 100g Sulfat Kali (K2SO4).
Số phân trên có thể chia làm 4- 5 lần bón trong năm.
Có thể dùng NPK 15-15-15 dùng từ 300- 500g chia làm nhiều lần bón trong năm tùy theo tuổi của cây.
c) Tài liệu nghiên cứu qui trình trồng sầu riêng Thái Lan của Phichit Xôtvătthana :
-Trong 2 năm đầu sau khi trồng, việc bón phân có tính quyết định cho sự thành công trong nghề trồng sầu riêng. Tỷ lệ phân bón 15-15-15, liều lượng 300- 500g chia làm 3- 4 lần.
-Bón phân bồi dưỡng cho cây còn nhỏ hoặc cây có tuổi cao, sau khi thu hoạch trái nhằm thúc cho cây tạo hệ thống rễ chắc khỏe và tích lũy dinh dưỡng cho vụ ra hoa tiếp theo. Bón nhiều Phospho hơn theo tỷ lệ 12-24-12 với lượng dùng từ 200g đến 3 kg.
-Bón cho cây chuẩn bị ra hoa : Giai đoạn trước khi ra hoa nên bón chất đạm ít đi và tăng thêm Phospho và Kali như loại : 9-24-24.
-Bón phân ở giai đoạn kết trái : Nên dùng các loại phân làm tăng thêm chất lượng trái như 13-13-21 hay 14-14-21, lượng phân dùng từ vài trăm gam đến vài ký, và chia làm nhiều lần tùy cây lớn nhỏ. Để sầu riêng có chất lượng cao và trái to thì phun Kali cùng với Lưu huỳnh bột loại hòa tan trong nước nhưng không nên dùng quá liều cần thiết sẽ gây độc cho cây.
* Lưu ý :
-Tránh bón thúc vào giai đoạn cây đang ra cành lá non. Bón vào giai đoạn lá vừa già hay đã già.
-Kỹ thuật bón phân hóa học, tính toán liều lượng thích hợp và tỷ lệ NPK cung cấp cho cây sầu riêng là rất quan trọng. Trong thực tế canh tác môi trường đất trồng trọt mỗi vùng mỗi khác, đặc điểm sinh trưởng của từng giống cũng khác. Chưa có công trình nghiên cứu về cây sầu riêng hoàn chỉnh. Vì thế phải theo dõi điều chỉnh trong quá trình canh tác, quyết định lượng phân bón phù hợp từng giai đoạn sinh trưởng … nhằm xác lập công thức và qui trình bón phân là vấn đề rất cần thiết.
1. Đối với cây sầu riêng phạm vi độ pH thích ứng hẹp nên dùng nhiều biện pháp để điều chỉnh độ pH như bón vôi, bón tro, bón các loại chất kiềm, làm thủy lợi … Một số phân bón có thể gây phản ứng bất lợi khi bón trên đất quá chua hay quá kiềm .
2. Chỉ bón phân khoáng khi đã xác định được đất đang thiếu, cây đang cần hay để phát huy tác dụng các loại phân khác cho cây trồng.
3. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại phân bón lá sử dụng cho cây sầu riêng. Ở một mức độ nào đó nó có thể thay thế được phân khoáng bón vào đất.
RHQ, 07/05/2007
Nhấn vào đây dể xem các thông tin kỹ thuật trồng sầu riêng
Quy Trình Kỹ Thuật Bón Phân Cho Cây Sầu Riêng
1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng
Các chất dinh dưỡng có vai trò hết sức quan trọng giúp ổn định và tăng năng suất cho cây. Cây sầu riêng cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng. Thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển không bình thường của cây.
Nhu cầu dinh dưỡng của cây tăng theo tuổi cây và mức năng suất. Sầu riêng thu bói có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn cây kiến thiết cơ bản và cây trong vườn ươm. Sầu riêng kinh doanh có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn so với sầu riêng mới thu bói. Năng suất sầu riêng càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn.
Sầu riêng rất cần kali nhưng không nên sử dụng kali clorua (KCl) mà phải sử dụng Kali Sulphate (K 2SO 4) và trung-vi lượng (TE) vì KCl làm sầu riêng giảm mùi thơm.
Khi cây sầu riêng cho năng suất quả 6.720 kg đã lấy đi 18,1 kg N, 6,6 kg P 2O 5, 33,5 kg K 2 O, 5,4 kg MgO và 2,6 kg CaO.
Đối với sầu riêng tất cả các chất đa lượng và các chất vi lượng như Kẽm, Bo… đều cần thiết cho giai đoạn đậu quả và phát triển quả, trong đó, N, P và là cần thiết nhất trong giai đoạn phát triển quả, K là chất dinh dưỡng cần thiết trong giai đoạn sau của sự phát triển quả cho đến khi thu họach.
+ Đạm (N): Đây là thành phần quan trọng cho tất cả bộ phận của cây và đặc biệt cần thiết cho sự sinh trưởng dinh dưỡng.
Đạm cần thiết cho sự phát triển của lá, thân cành, hoa, quả, hạt. Do vậy, cần bón đạm đầy đủ cho cây sầu riêng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc 5 đúng (đúng loại, đúng nhu cầu, đúng loại đất, đúng liều lượng và đúng phương pháp), ngoài ra còn phải đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Cây đủ đạm lá xanh tốt, cây phát triển khỏe, quả phát triển đều.
Sầu riêng được bón phân đầy đủ
Thiếu đạm: Lá có màu xanh vàng hay xanh noãn chuối. Thiếu nặng lá rụng nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần.
Thừa đạm: Phát triển thân lá mạnh, lá có màu xanh đậm, dễ bị sâu bệnh tấn công, đậu quả ít, rụng quả nhiều, quả phát triển không bình thường như mất gai, nứt quả…
Quả phát triển không bình thường do dư đạm
+ Lân (P): Sầu riêng cần lân tương đối ít. Dạng lân dễ tiêu trong đất thường bị giới hạn bởi việc cố định do các phản ứng hóa học, đặc biệt là ở đất chua. Nên thường xuyên bón phân lân với lượng nhỏ. Cần bón lót phân lân trong hố trước khi trồng để giúp cây tăng trưởng trong giai đoạn ban đầu.
Thiếu lân: Lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và cành chết.
+ Kali (K): Kali rất quan trọng khi cây ra quả, lượng kali trong quả rất lớn. Bón thường xuyên phân kali rất cần thiết để duy trì năng suất cao và phẩm chất ngon cho sầu riêng. Với đất nhiều K sẽ cản trở sự hấp thu Ca và Mg. Trong trường hợp này cần bón Ca và Mg nhưng không bón K. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại bệnh. Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét.
Thiếu K: Mép lá chuyển màu vàng cam sau tới màu xám nâu và khô, lá rụng nhiều.
+ Lưu huỳnh (S): Thiếu S, hầu hết lá trên cây chuyển sang màu vàng, xuất hiện những vết như vết bệnh trên lá già. Ở lá non, lúc đầu có màu vàng sáng sau đó chuyển sang màu vàng nhạt, tương tự triệu chứng ở lá già. Lưu huỳnh được bón thông qua phân SA (chứa khoảng 24 % S); phân Super lân (Super lân chứa khoảng 14 % S). …
Ngoài ra, thiếu magiê: phần thịt lá bị vàng và lan dần từ gân chính ra mép lá; thiếu canxi: lá héo vàng từ rìa lá sau lan vào gân chính; thiếu kẽm: các lá và chồi đầu cành không phát triển tốt (rụt đọt), lá không thể nở lớn.
2. Xác định loại phân bón
2.1. Các loại phân bón cho sầu riêng
a. Phân hữu cơ
Các loại phân hữu cơ thường dùng để bón cho sầu riêng như phân gia súc, than bùn, phân ủ các dư thừa thực vật, phân xanh, phân cá…
– Tạo chất đệm, ổn định độ chua của đất tăng hiệu quả của việc bón phân vô cơ.
– Làm đất tơi xốp, giữ ẩm tốt, tăng độ phì nhiêu.
– Tạo môi trường thuận lợi để vi sinh vật phát triển và hoạt động làm tăng khả năng kháng bệnh đối với cây trồng.
– Chi phí thấp.
– Hiệu quả chậm;
– Cồng kềnh, tốn công vận chuyển;
– Hàm lượng dưỡng chất thấp, không ổn định, khó kiểm soát.
Để nâng cao hàm lượng dinh dưỡng phân chuồng, nên tận dụng các dư thừa thực vật có sẳn để độn vào phân chuồng và ủ phân trước khi sử dụng.
Các nguyên liệu để độn/lót chuồng: Trấu, rơm rạ để độn vô chuồng vừa làm chuồng khô, ấm vừa hút nước tiểu của gia súc để tránh trôi và bốc hơi.
Các nguyên liệu để ủ chung với phân: Lá rụng khô: Điều, sầu riêng, cỏ…
Thân cành lá tươi thu được từ dọn vườn, tỉa cành sầu riêng, cây che bóng. Tất cả được ủ chung với phân chuồng.
Hiện nay, nông dân chưa tận dụng được các tàn dư thực vật để độn với phân chuồng nên phân có chất lượng kém. Do đó, các dư thừa thực vật ” không nên đốt bỏ”, mà nên giữ lại để độn ủ chung với phân chuồng vừa tăng khối lượng phân đồng thời tăng cả về chất lượng.
Có thể lựa chọn các cách ủ phân hữu cơ như sau:
– Ủ nóng: Khi lấy phân ra khỏi chuồng để ủ, phân được xếp thành từng lớp ở nơi có nền không thấm nước, nhưng không được nén. Sau đó, tưới nước phân lên, giữ độ ẩm trong đống phân 60 – 70%. Có thể trộn thêm 1% vôi bột (tính theo khối lượng) trong trường hợp phân có nhiều chất độn. Trộn thêm 1 – 2% supe lân để giữ đạm. Sau đó trát bùn bao phủ bên ngoài đống phân. Hàng ngày tưới nước phân lên đống phân.
Sau 4 – 6 ngày, nhiệt độ trong đống phân có thể lên đến 50 – 60 o C. Các loài vi sinh vật phân giải chất hữu cơ phát triển nhanh và mạnh. Các loài vi sinh vật háo khí chiếm ưu thế. Do tập đoàn vi sinh vật hoạt động mạnh cho nên nhiệt độ trong đống phân tăng nhanh và đạt mức cao. Để đảm bảo cho các loài vi sinh vật háo khí hoạt động tốt cần giữ cho đống phân tơi, xốp, thoáng.
Phương pháp ủ nóng có tác dụng tốt trong việc tiêu diệt các hạt cỏ dại, loại trừ các mầm móng sâu bệnh. Thời gian ủ tương đối ngắn. Chỉ 30 – 40 ngày là ủ xong, phân ủ có thể đem sử dụng. Tuy vậy, phương pháp này có nhược điểm là để mất nhiều đạm.
– Ủ nguội: Phân được lấy ra khỏi chuồng, xếp thành lớp và nén chặt. Trên mỗi lớp phân chuồng rắc 2% phân lân. Sau đó ủ đất bột hoặc đất bùn khô đập nhỏ, rồi nén chặt. Thường đống phân được xếp với chiều rộng 2 – 3 m, chiều dài tuỳ thuộc vào chiều dài nền đất. Các lớp phân được xếp lần lượt cho đến độ cao 1,5 – 2,0 m. Sau đó trát bùn phủ bên ngoài.
Do bị nén chặt cho nên bên trong đống phân thiếu oxy, môi trường trở lên yếm khí, khí cacbonic trong đống phân tăng. Vi sinh vật hoạt động chậm, bởi vậy nhiệt độ trong đống phân không tăng cao và chỉ ở mức 30 – 35oC. Đạm trong đống phân chủ yếu ở dạng amôn cacbonát, là dạng khó phân huỷ thành amôniac, nên lượng đạm bị mất giảm đi nhiều.
Theo phương pháp này, thời gian ủ phân phải kéo dài 5 – 6 tháng phân ủ mới dùng được. Nhưng phân có chất lượng tốt hơn ủ nóng.
– Ủ nóng trước, nguội sau: Phân chuồng lấy ra xếp thành lớp không nén chặt ngay. Để như vậy cho vi sinh vật hoạt động mạnh trong 5 – 6 ngày. Khi nhiệt độ đạt 50 – 60oC tiến hành nén chặt để chuyển đống phân sang trạng thái yếm khí.
Sau khi nén chặt lại xếp lớp phân chuồng khác lên, không nén chặt. Để 5 – 6 ngày cho vi sinh vật hoạt động. Khi đạt đến nhiệt độ 50 – 60 o C lại nén chặt.
Cứ như vậy cho đến khi đạt được độ cao cần thiết thì trát bùn phủ chung quanh đống phân. Quá trình chuyển hoá trong đống phân diễn ra như sau: Ủ nóng cho phân bắt đầu ngấu, sau đó chuyển sang ủ nguội bằng cách nén chặt lớp phân để giữ cho đạm không bị mất.
Để thúc đẩy cho phân chóng ngấu ở giai đoạn ủ nóng, người ta dùng một số phân khác làm men như phân bắc, phân tằm, phân gà, vịt… Phân men được cho thêm vào lớp phân khi chưa bị nén chặt.
Ủ phân theo cách này có thể rút ngắn được thời gian so với cách ủ nguội, nhưng phải có thời gian dài hơn cách ủ nóng.
Tuỳ theo thời gian có nhu cầu sử dụng phân mà áp dụng phương pháp ủ phân thích hợp để vừa đảm bảo có phân dùng đúng lúc vừa đảm bảo được chất lượng phân.
– Ủ phân hữu cơ vi sinh
Nguồn phế thải nông, lâm nghiệp và công nghiệp thực phẩm như: Rơm rạ, thân lá cây bắp (ngô), đậu phộng (lạc), đậu đỗ sau thu hoạch, cây phân xanh, bèo tây (lục bình)…; Vỏ cà phê, trấu…; Các loại mùn: than mùn (than bùn dùng trong sản xuất phân bón), mùn: mía, cưa, giấy…Phân gia súc, gia cầm…
Cám gạo, rỉ mật hoặc mật mía.
Chế phẩm sinh học (Men ủ): Men cái hoặc men ủ hoàn chỉnh như chế phẩm BIMA (Trichoderma), ACTIVE CLEANER (xạ khuẩn Streptomyces sp, nấm Trichoderma sp, vi khuẩn Bacillus sp), Canplus, Emuniv, SEMSR, BIO-F, BiOVAC, BiCAT, Bio EM…
Lưu ý: Đa số các loại chế phẩm sử dụng để sản xuất phân hữu cơ vi sinh hiện nay khi sử dụng tuyệt đối không rắc thêm các loại phân vô cơ hoặc vôi, vì như vậy nó sẽ tiêu diệt vi sinh vật có ích cho quá trình phân hủy. Tuy nhiên, cũng có một số loại chế phẩm hoàn toàn có thể rắc thêm phân vô cơ hoặc vôi như BioEM… mà không ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật, đồng thời làm tăng quá trình phân hủy chất hữu cơ khi ủ. Cụ thể: Lượng vôi sử dụng cho 1 tấn phân ủ từ 10 – 15kg, phân NPK từ 5 – 10kg hoặc đạm từ 1 – 2kg và lân từ 5 – 10kg.
Nguyên liệu chuẩn bị cho một đóng ủ phân hữu cơ 2,5 – 3 m3 (1 tấn phân hữu cơ vi sinh)
+ Phế phụ phẩm có nguồn gốc từ cây xanh: 600 – 800 kg;
+ Phân chuồng: 200 – 400 kg;
+ Chế phẩm sinh học: Đủ cho ủ 1 tấn phân.
+ Nước gỉ đường hoặc mật mía: 2 – 3 kg; Nếu không có nước gỉ mật hoặc mật mía thì có thể dùng các phụ phẩm vỏ quả chín, quả chuối chín nẫu… ngâm vào nước thay thế, ngâm trước khi ủ phân 2 – 3 ngày.
+ Cám gạo: 3 kg.
+ Chuẩn bị dụng cụ: Bình tưới ô doa (loại bình dùng để tưới rau), cào, cuốc, xẻng, rành (rổ)… Vật liệu để che đậy, làm mái: Có thể dùng các loại vật liệu sẵn có như bạt, bao tải, chúng tôi đậy và các loại lá để làm mái tránh mưa, ánh nắng và giữ nhiệt cho đống ủ.
Địa điểm ủ nên thuận tiện cho việc ủ và vận chuyển sử dụng. Nền chỗ ủ bằng đất nện, lát gạch hoặc láng xi măng, nền nên bằng phẳng hoặc hơi dốc. Nếu nền bằng phẳng nên tạo rãnh xung quanh và hố gom nhỏ để tránh nước ủ phân chảy ra ngoài khi tưới quá ẩm. Có thể ủ trong nhà kho, chuồng nuôi không còn sử dụng để tận dụng mái che. Nếu ủ trong kho phải có thoát nước. Để ủ 1 tấn phân ủ cần diện tích nền khoảng 3 m2.
+ Các bước ủ phân hữu cơ vi sinh
Bước 1. Thu gom các nguồn hữu cơ (đã tưới ẩm qua đêm) chất theo đống hoặc để trong bạt nhựa đục một lớp dày khoảng 20 cm.
Thu gom các nguồn hữu cơ
Bước 2. Tưới nước vừa đủ ẩm, trong quá trình tưới dùng chân đạp để đống hữu cơ được nén dẽ xuống.
Tưới nước
Bước 3. Rắc một lớp tro mỏng.
Rắc tro
Bước 4. Cho vào một lớp phân chuồng.
Thêm phân chuồng
Bước 5. Trộn chế phẩm vi sinh và nước gỉ mật: Chia đều chế phẩm và nước gỉ mật làm 5 phần. Cho 1 phần chế phẩm và nước gỉ mật vào ô doa nước khuấy đều và tưới lên đống ủ.
Chuẩn bị tưới nấm Tricoderma
Bước 6. Cho thêm một lớp xác bã thực vật và tiếp tục lặp lại thứ tự trên (bước 1 đến bước 5) cho đến khi đống ủ cao khoảng 1,2 – 1,6 mét.
Cho thêm xác bả thực vật
Bước 7. Lớp xác bã thực vật sau cùng khi tưới nấm Trichoderma được vun lên thành mô để tránh đọng nước trên bạt.
Vun mô
Bước 8. Phủ kín và chèn thật kỹ bạt nhựa để giữ ẩm.
Che tủ
Bước 9. Kiểm tra đống ủ sau khi ủ 7 – 10 ngày xem có đủ ẩm và còn tơi xốp không. Đảo đống ủ để tăng cường ôxi giúp vi sinh vật hoạt động tốt.
Kiểm tra đống ủ
Bước 10. Tưới nước để duy trì độ ẩm của đống ủ khi đống ủ quá khô. Vừa tưới vừa kết hợp đảo đều đống ủ.
Tưới nước cho đống ủ
Bước 11. Sau khi tưới nước và đảo đống ủ thì che tủ đống ủ như ở bước 8.
Che đống ủ sau khi tưới nước và đảo đều đống ủ
Lưu ý: Cứ 7 – 10 ngày sau lại mở đống ủ ra kiểm tra, nếu thấy đống ủ khô thì tiến hành tưới nước và đảo đều đống ủ (làm như bước 9 – bước 11).
Trong khi ủ, không nên sử dụng trấu hoặc xơ dừa vì có nhiều chất chát sẽ làm cho nấm khó phát triển, không dùng nilon trong mà phải dùng bạt đục để phủ đống ủ.
Nguồn nguyên liệu xác bã hữu cơ được xếp như sau: vật liệu khô (rơm rạ…..) để lớp dưới, tiếp đến vật liệu ướt như lục bình, thân dây rau màu còn tươi để lớp trên….
Khi ủ nhiệt độ đống ủ đã hạ xuống không còn nóng nữa (khoảng 6 tuần sau khi ủ) thì tưới vi sinh vật cố định đạm và hòa tan lân (nếu có).
Thời gian ủ dài hay ngắn tuỳ theo loại nguyên liệu và mùa vụ, kéo dài từ 1-4 tháng. Khi kiểm tra thấy đống phân màu nâu đen, tơi xốp, có mùi chua nồng của dấm, thọc tay vào đống phân thấy ấm vừa tay là phân đã hoai mục (chín hoặc ngấu), hoàn toàn có thể đem sử dụng.
Phân dùng không hết nên đánh đống lại, che đậy cẩn thận hoặc đóng bao để dùng về sau. Phân ủ xong sử dụng tốt nhất trong vòng 1 năm và hiệu quả sử dụng đạt cao nhất trong một tháng khi phân ngấu.
Phân ủ chủ yếu dùng để bón lót cho các loại cây trồng, có thể sử dụng bón thúc đối với các loại rau và hoa. Cách bón tương tự như bón phân hữu cơ truyền thống khác.
Nên sử dụng phân ủ vi sinh bón cho sầu riêng vì tốn chi phí, tận dụng nguồn phế phẩm và phế thải trong quá trình trồng trọt và chăn nuôi, hạn chế đến mức thấp nhất nguồn bệnh lây lan, bảo vệ môi trường sống trong lành. Nông dân ở vùng chăn nuôi nhỏ, lẻ có sẳn nguồn phân chuồng và nguồn xác bã thực vật cũng nên mạnh dạn ủ phân là góp phần đảm bảo an toàn chất lượng sản phẩm, góp phần xây dựng nền nông nghiệp bền vững.
b. Phân vô cơ
Đối với cây sầu riêng cần bón các loại phân vô cơ chứa đạm, lân, kali và một số phân vi lượng. Tùy theo nhu cầu dinh dưỡng ở mỗi giai đoạn phát triển mà lựa chọn các loại phân vô cơ để bón cho phù hợp.
* Ưu điểm của phân vô cơ:
– Đáp ứng nhanh kịp thời nhu cầu của cây.
– Hàm lượng dinh dưỡng thường cao, ổn định và dễ kiểm soát. – Dễ vận chuyển, dễ sử dụng.
* Hạn chế của phân vô cơ:
– Sử dụng đơn độc lâu ngày đất bị chai cứng, chua, cây hấp thụ kém.
– Hạn chế vi sinh vật phát triển.
Chất cải tạo đất
* Vôi: Thông thường người ta bón vôi để nâng cao độ pH của đất, để cải tạo lý, hoá tính của đất, xúc tiến quá trình phân giải chất hữu cơ, tăng cường sự sinh trưởng phát triển của VSV trong đất, giải phóng lân bị cố định.
* Dolomite: Thông thường sử dụng vôi bột để bón cho đất trồng sầu riêng nhưng nếu có điều kiện nên dùng Dolomit thay vôi để vừa cung cấp Canxi vừa cung cấp Magie cho sầu riêng . Đất có độ pH ≤ 5,5 là phải bón vôi, nhưng phải bón nhiều năm liền để nâng độ pH lên chứ không nên bón nhiều 1 lần với số lượng lớn.
Chất vi lượng bón cho sầu riêng thường được phối hợp dưới hình thức một loại phân bón hỗn hợp nào đấy, có thể ở dạng thô sử dụng bón lót hoặc bón thúc, cũng có thể ở dạng dung dịch sử dụng phun vào lá.
2.2. Tính lượng phân bón cho cây sầu riêng
– Giai đọan cây con và những năm đầu cho quả: Bón 5 – 10kg phân gà/gốc (hoặc phân hữu cơ đã hoai mục) kết hợp với phân vô cơ theo công thức N:P:K:Mg = 18:11:5:3 hoặc: 15:15:6:4. Liều lượng và số lần bón trong năm như bảng dưới.
Liều lượng và số lần bón phân theo tuổi cây
– Giai đoạn cho quả ổn định: Đối với cây có đường kính tán 5 – 6 m đang phát triển bình thường có thể bón như sau:
+ Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân hữu cơ hoai mục 20 – 30kg/cây (hoặc phân Humix, Dynamic lifter theo liều lượng khuyến cáo trên bao bì) kết hợp với phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức N:P:K:Mg (18:11:5:3) với liều lượng 2 – 3kg/cây.
+ Lần 2: Trước ra hoa 30 – 40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N:P:K:Mg (10:50:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.
+ Lần 3: Khi quả sầu riêng lớn bằng quả chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao theo công thức N:P:K:Mg (12:12:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây.
+ Lần 4: Trước khi quả chín 1 tháng bón 2 – 3 kg phân như NPK (16-16-8) kết hợp với 1 – 1,5kg phân K2SO4 để tăng chất lượng quả.
Có thể sử dụng phân bón Komix chuyên dùng cho cây sầu riêng để bón cho cây với liều lượng như sau :
– Giai đoạn cây con và lúc bắt đầu cho quả: đầu mùa mưa mỗi gốc bón 3- 4 kg phân Lân hữu cơ vi sinh Komix và 20 kg phân Komix chuyên dùng cho Sầu Riêng, với lượng phân chuyên dùng này ta có thể chia làm 4 lần bón trong năm.
– Giai đoạn cây cho quả ổn định: bón hoàn toàn bằng phân Komix chuyên dùng cho sầu riêng, với liều lượng như sau:
+ Sau thu hoạch bón: 5 – 10kg phân Lân hữu cơ vi sinh Komix + 10kg phân chuyên dùng.
+ Trước khi cây ra hoa: bón 10 kg phân Komix chuyên dùng cho cây sầu riêng.
+ Khi quả sầu riêng to bằng quả chôm chôm: bón 10 kg phân Komix chuyên dùng cho cây.
3. Chuẩn bị trước khi bón
3.1. Chuẩn bị phân bón
– Chuẩn bị phân bón chứa đạm: Phân urê (46%) hoặc Sunphat đạm (phân SA) chứa 20 – 21% nitơ (N) hoặc Phôtphat đạm (phốt phát amôn) chứa 16% đạm và 20% lân.
– Chuẩn bị phân bón chứa lân: Supe lân và Lân nung chảy, chứa từ 15,5% – 17% Ô-xít Phốt-pho (P 2O 5 hữu hiệu).
– Chuẩn bị phân bón chứa kali: Sun-phat Ka-li (SOP, K 2SO 4) chứa 50% Ô-xít Ka-li (K 2 O).
– Chuẩn bị phân bón lá: Composition, Fetrilon-combi, Super vi lượng..
– Chuẩn bị phân hữu cơ: Phân bò, phân gà, phân heo (lợn), phân hữu cơ vi sinh, phân dơi, phân cá …
3.2. Chuẩn bị dụng cụ để bón phân
– Chuẩn bị dụng cụ, trang thiết bị để bón phân: Cân trọng lượng, xô, chậu, thúng, túi nilon, máy bón phân…
4. Kỹ thuật bón phân cho sầu riêng
4.1. Bón phân giai đoạn kiến thiết cơ bản
Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của giai đoạn kiến thiết cơ bản để xác định thời điểm bón phân cho phù hợp:
Lượng NPK hoặc hỗn hợp phân được chia đều và bón nhiều lần trong năm (4 – 6 lần). Nếu có điều kiện nên bón hàng tháng sẽ cho kết quả tốt hơn. Có thể sử dụng thêm phân bón lá nếu cây phát triển kém, chú ý phun ở mặt dưới lá.
Phân hữu cơ và vôi: Bón 1 lần vào đầu mùa mưa.
Phân vi lượng: Phun 2 lần trong năm.
Bón gốc
– Phân hữu cơ: Bón vào hố trước khi trồng hoặc rải quanh bồn ở phía ngoài rìa tán lá, xới nhẹ và đều.
– Phân vô cơ: Bón tập trung ở tầng đất mặt (cây sầu riêng có bộ rễ ăn nông chỉ từ 0 – 30 cm). Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản bộ rễ cây sầu riêng chưa phát triển mạnh nên bón quanh và cách gốc 20 cm tùy theo độ lớn của cây. Tủ lên một lớp đất mỏng và dùng lá cây, cỏ, tủ lên trên.
Phun trên lá
Thường áp dụng đối với các loại phân vi lượng như Supper Zinc K. Cần lưu ý sử dụng đúng nồng độ như khuyến cáo để tránh gây cháy lá hoặc ngộ độc. Để tăng hiệu quả của phân bón lá nên phun vào buổi sáng và phun mặt dưới của lá.
Bước 3. Tiến hành bón phân cho sầu riêng
– Bón lót: Trộn phân hữu cơ hoặc phân chuồng và vôi đều với đất vào hố/gốc và lấp hố trước khi trồng 15 – 30 ngày.
– Bón thúc: Xới nhẹ đất trong tán, rải đều phân và phủ một lớp đất mỏng lên trên.
Tưới nước đủ ẩm sau khi bón phân để phân hòa tan cho cây trồng dễ hấp thu nhưng không được tưới quá nhiều sẽ trôi mất phân.
Có thể kết hợp với các biện pháp tủ đất vừa giúp giữ ẩm vừa giảm lượng phân bay hơi.
4.2. Bón phân giai đoạn kinh doanh
Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của giai đoạn kinh doanh để xác định thời điểm bón phân cho phù hợp:
Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân gà hoai mục 20 – 30 kg/cây (hoặc phân Humix, Dynamic lifter theo liều lượng khuyến cáo) kết hợp với phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức N: P: K: Mg (18:11: 5: 3 hoặc 15:15: 6: 4) với liều lượng 2 – 3 kg/cây.
Lần 2: Trước ra hoa 30 – 40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N: P: K (10:50:17) với liều lượng 2 – 3kg/cây để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.
Lần 3: Khi quả sầu riêng to bằng quả chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao theo công thức N: P: K: Mg (12:12:17:2) với liều lượng 2 – 3 kg/cây.
Lần 4: Trước khi quả chín 01 tháng bón 2 – 3 kg phân NPK như NPK (16:16:8) kết hợp với 1 – 1,5 kg phân KNO 3 để tăng chất lượng quả.
Nên chú ý, đây là lần bón phân thứ 4 sau khi thu hoạch vụ trước và cũng là lần bón phân cuối cùng của vụ quả năm này, lần bón phân này không bón trễ hơn 1 tháng trước thu hoạch. Bởi vì bón như vậy, sẽ có nhiều nguy cơ làm giảm phẩm chất quả như cơm quả bị sượng, bị nhão.
Ngoài ra, còn có thể sử dụng phân bón lá có hàm lượng kali cao để góp phần nâng cao năng suất phẩm chất quả. Có thể phun phân bón lá làm 5 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần, bắt đầu từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 9 sau khi đậu quả.
Bón gốc
– Phân hữu cơ: Bón rải quanh bồn
ở phía ngoài rìa tán lá, xới nhẹ và đều hoặc đào rãnh rộng 10 – 30 cm, sâu 10
– 20 cm xung quanh đường kính tán, bón xong lấp đất lại.
Đào hố quanh tán bón phân hữu cơ
– Phân vô cơ: Bón giống như thời kỳ kiến thiết cơ bản (xới đất nhẹ, rải phân trong tán, cách gốc 20 cm, lấp đất nhẹ, tưới nước và tủ gốc).
Bón phân vô cơ
Phun trên lá
Phun theo hướng dẫn trên bao bì theo giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây.
Bước 3. Tiến hành bón phân cho sầu riêng
– Bón lót: Trộn phân hữu cơ hoặc phân chuồng và vôi đều với đất vào rãnh rồi lấp đất lại.
– Bón thúc: Xới nhẹ đất trong tán, rải đều phân và phủ một lớp đất mỏng lên trên.
Tưới nước đủ ẩm sau khi bón phân để phân hòa tan cho cây trồng dễ hấp thu nhưng không được tưới quá nhiều sẽ trôi mất phân. Có thể kết hợp với các biện pháp tủ đất vừa giúp giữ ẩm vừa giảm lượng phân bay hơi.
– Khi bón phân kết hợp tưới nước vừa đủ ẩm: Bón phân xong cần tưới nước ngay và tủ gốc lại giữ ẩm giúp phân tan và giữ trong đất để cây hút từ từ.
– Vào tháng 2 và 3 không nên bón phân vì thời tiết nóng, đất khô, thiếu nước nên hiệu quả phân bón thấp.
– Đối với vùng đất có pH thấp nên dùng DAP bón thay NPK loại 16:16:8.
– Làm sạch cỏ xung quanh gốc sầu riêng; xén và bứng rễ cây trồng xen tạm thời hay bằng cách xén rãnh xung quanh bồn để hạn chế sự cạnh tranh dinh dưỡng với cây sầu riêng.
– Hạn chế sự mất mát phân do bốc hơi, do nước chảy tràn bằng cách làm bồn, tủ gốc bằng lớp lá cây cỏ lên trên xung quanh gốc.
– Tránh bón phân lúc mưa to và lúc không có nước tưới.
– Làm bồn chỉ nên xới xáo vùng từ rìa tán lá ra phía ngoài, xới xáo nhẹ vùng bên trong tán lá vì xới xáo mạnh sẽ làm tổn thương rễ sầu riêng.
– Không sử dụng đơn độc phân vô cơ mà cần bón phân hữu cơ hàng năm.
5. Bón phân cho sầu riêng theo nguyên tắc 5 đúng
5.1. Bón đúng loại phân
– Cây sầu riêng yêu cầu phân gì thì bón phân đó. Phân bón có nhiều loại, nhưng có 3 loại chính là đạm – N, lân – P, kali – K. Lưu huỳnh (S) cũng rất cần nhưng với lượng ít hơn. Mỗi loại có chức năng riêng. Bón phân không đúng yêu cầu, không phát huy được hiệu quả còn gây hại cho cây.
– Bón đúng không những đáp ứng được yêu cầu của cây mà còn giữ được ổn định môi trường của đất.
Ở đất chua tuyệt đối không bón những loại phân có tính axit cao quá ngưỡng và trên nền đất kiềm không bón các loại phân có tính kiềm cao quá ngưỡng.
5.2. Bón đúng nhu cầu sinh lý của cây sầu riêng
– Nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển. Ở giai đoạn sinh trưởng cần đạm hơn kali; ở thời kỳ phát triển quả lại cần kali hơn đạm. Bón đúng loại phân mà cây cần mới phát huy hiệu quả.
– Trong suốt thời kỳ sống, cây sầu riêng luôn luôn có nhu cầu các chất dinh dưỡng cho sinh trưởng và phát triển, vì vậy khi bón phân nên chia ra bón nhiều lần theo quy trình và bón vào lúc cây phát triển mạnh, không bón một lúc quá nhiều. Việc bón quá nhiều phân một lúc sẽ gây ra thừa lãng phí, ô nhiễm môi trường, cây sử dụng không hết sẽ làm cho cây biến dạng dễ nhiễm bệnh, năng suất chất lượng nông sản thấp.
– Bón phân có 3 thời kỳ: bón lót trước khi trồng (hay bón hồi phục sau khi cây thu hoạch vụ trước), bón thúc (nhằm thúc đẩy quá trình sinh trưởng của cây, tạo chồi lá mới) và bón rước hoa, nuôi hoa, bón nuôi quả…
5.3. Bón đúng điều kiện đất đai
Bón phân là hình thức bổ sung vào đất chất dinh dưỡng cho cây sầu riêng. Ngoài ra, còn có các vi sinh vật đất phân hủy các chất hữu cơ sẵn có hoặc cố định N từ không khí vào đất, do vậy bón phân còn có tác dụng kích thích hoạt động của tập đoàn vi sinh vật đất. Nhờ đó cây được tăng cường cung cấp lượng các chất dinh dưỡng cân đối hơn. Bón phân không những cần cho cây sầu riêng mà còn giúp cho vi sinh vật đất phát triển hữu hiệu hơn.
5.4. Bón đúng lúc
Mùa vụ, nhiệt độ và thời tiết ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của phân bón. Mưa làm rửa trôi, trực di phân bón (phân chảy xuống tầng đất dưới), nắng khô làm phân bón khó tan và rất dễ bốc hơi, cây không còn nhiều dinh dưỡng để phát triển, đôi khi còn gây cháy lá, hư hoa, hư quả… Vì vậy, nên bón phân cho cây sầu riêng lúc sáng sớm, chiều mát tránh bón vào buổi trưa, ngày mưa lớn…
Bón đúng loại phân, bón đúng thời cơ, bón đúng đối tượng làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với hạn, thời tiết bất thường của môi trường và với sâu bệnh gây hại (ví dụ phân kali).
Bón phân không phải lúc nào cũng để cung cấp dinh dưỡng thúc đẩy cây sầu riêng phát triển mà còn có trường hợp phải dùng phân để tác động hãm bớt tốc độ sinh trưởng nhằm tăng tính chịu đựng của cây trước các yếu tố xấu phát sinh.
5.5. Bón đúng phương pháp
Có 2 loại phân bón: Phân bón gốc và phân bón lá. Tùy nhu cầu phát triển của mỗi giai đoạn mà có phương pháp bón thích hợp. Với phân bón gốc thì bón vào hố, rãnh theo vành tán lá hoặc rải đều trên mặt đất. Với phân bón lá thì phun đều trên lá, nếu ướt được cả 2 mặt lá thì càng tốt.
Nguồn: Giáo trình nghề trồng cây sầu riêng – Bộ NN&PTNT
Nhu Cầu Dinh Dưỡng Của Cây Cà Phê Và Cách Sử Dụng Phân Bón Cho Cây Cà Phê Hiệu Quả
Cây cà phê là một trong những cây trồng chủ lực ở Tây Nguyên, đồng thời cà phê cũng là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta. Ở Tây Nguyên, cây cà phê được đầu tư thâm canh cao trong đó nhiều hộ nông dân cũng đã có những kinh nghiệm nhất định trong kỹ thuật chăm bón cây cà phê để đạt được năng suất cao. Một trong những biện pháp kỹ thuật giúp đẩy mạnh năng suất cây trồng chính là việc bón phân cân đối và hợp lý. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà phần lớn diện tích cà phê đã được khai thác trên 20 năm cùng với sự biến động của khí hậu cũng như thị trường khốc liệt thì đòi hỏi người nông dân cần phải nắm vững hơn nữa những yêu cầu dinh dưỡng cơ bản của cây cà phê trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển từ đó có thể bón phân cân đối hợp lý để tăng hiệu quả sử dụng phân bón và hiệu quả kinh tế cho bà con nông dân.
1. NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA CÂY CÀ PHÊ
Cũng như các cây trồng khác, ngoài các chất dinh dưỡng đa lượng (N, P, K) cây cà phê còn cần bổ sung thêm các chất dinh dưỡng trung lượng khác như Canxi (Ca), Magie (Mg), Lưu Huỳnh (S), các chất vi lượng như Đồng (Cu), Kẽm (Zn), Bo (B), Mangan (Mn), Molipden (Mo), Sắt (Fe), Clo (Cl) v.v.. Dinh dưỡng đa, trung, vi lượng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động sinh lý cây cà phê. Khi đáp ứng đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng cần thiết giúp cây sinh trưởng và phát triển khỏe mạnh (cây ra hoa, đậu quả và cho năng suất cao). Ngược lại khi không cung cấp đầy đủ và cân đối dinh dưỡng cần thiết cho cây thì cây sẽ sinh trưởng, phát triển hạn chế và năng suất thu hoạch sẽ không cao.
1.1. NHU CẦU CỦA CÁC YẾU TỐ DINH DƯỠNG ĐA LƯỢNG ĐỐI VỚI CÂY CÀ PHÊ
1.1.1. Nhu cầu của dinh dưỡng đạm (N) đối với cây cà phê
– Cho đến nay N được xem là nguyên tố quan trọng nhất đối với cà phê non và cả những cây đang cho thu hoạch. Cây cà phê cần nhiều đạm nhất vào mùa mưa là lúc quá trình phát triển và cũng là mùa tạo cành, lá mới dự trữ cho năm sau.
– Hàm lượng N trong cây cà phê biến động từ 1,5 – 2,0% trọng lượng khô (trung bình cho thân, cành, lá). Chỉ tính trong lá thì hàm lượng này biến động từ 2,2 – 3,5%, trong hạt chứa từ 3,5 – 4,5%. Lượng đạm cà phê cần cho quá trình thâm canh từ 300 – 350 N/ha.
– Đạm (N) được cây lấy từ đất ở dạng NH4+ và NO3-, sau đó kết hợp với các hợp chất mà cây đồng hóa được nhờ năng lượng của ánh sáng mặt trời để tạo thành các amino acid và protein. Đạm là động lực cho quá trình sinh trưởng của cà phê bao gồm cả quá trình hình thành năng suất, tham gia cấu thành năng suất từ 32,6 – 49,4%.
– Cung cấp đầy đủ và cân đối lượng đạm mà cây cần giúp cho việc hút các chất khác tốt hơn, đặc biệt là kali.
Hình ảnh: cây cà phê bị thiếu đạm
– Thiếu đạm cây sinh trưởng kém, mất cân đối. Cà phê không có cây che bóng thì toàn cây lá có màu vàng, kích thước lá và chồi bị nhỏ hơn bình thường. Cây cà phê có cây che bóng chỉ có lá già bị vàng. Trường hợp thiếu đạm trầm trọng thì toàn cây bị vàng. Cây cà phê bị thiếu đạm được phát hiện bằng mắt thì hàm lượng đạm trong lá từ 1,3 – 1,8%.
– Thừa đam: lá mỏng mềm, quang hợp hạn chế, sức đề kháng yếu dễ bị sâu bệnh tấn công.
1.1.2. Nhu cầu của dinh dưỡng lân (P) đối cây cà phê
– Hàm lượng lân trong lá, thân, cành biến thiên từ 0,07 – 0,15% P2O5, trong hạt chứa 0,35 – 0,50% P2O5 trọng lượng khô.
– Lân có vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống rễ cà phê, đặc biệt là giai đoạn cà phê còn nhỏ. Lân giúp cho quá trình thụ phấn thụ tinh thuận lợi và hình thành quả tốt hơn, giúp cây dự trữ tinh bột, cùng với kali làm tăng khả năng chống chịu của cây.
Hình ảnh: cây cà phê bị thiếu lân
– Lân chỉ tham gia cấu thành năng suất từ 7,8 – 8,6%. Thiếu lân thường xuất hiện ở lá già và ở các cành sai quả. Lúc đầu lá có màu vàng sáng, sau đó chuyển sang đỏ thẩm hoặc nâu đỏ pha tím, đôi khi có màu huyết dụ. Đầu tiên lá biến màu ở một phần (thường ở ngọn lá), cuối cùng cả lá biến màu và rụng. Cây cà phê có triệu chứng thiếu lân khi hàm lượng P2O5 trong lá từ 0,05 – 0,08%.
– Đất bazan vùng Tây Nguyên thường thiếu lân dễ tiêu, bón lân với tỷ lệ thích hợp (3-2 – 3 theo thứ tự N, P2O5, K2O) với lượng dinh dưỡng lân từ 200 – 250kg P2O5/ha cây sinh trưởng tốt cho năng suất cao và ổn định.
– Lưu ý: Bón phân lân quá nhiều làm cho năng suất cà phê không tăng, có khi ngược lại vì lân sẽ kìm hãm việc hút kẽm (Zn) của cà phê và gây đối kháng với kali trong đất, trong cây thông qua hàm lượng Ca, Mg chứa trong phân với một lượng cao đáng kể.
1.1.3. Nhu cầu của dinh dưỡng Kali (K) đối cây cà phê
– Hàm lượng kali chứa trong cây theo phân tích của Viện KHKTNLN Tây Nguyên biến động từ 1,1 – 1,6% K2O, trong hạt từ 3,0 – 3,7% K2O. Kali tham gia vào hoạt tính của hơn 60 enzim, giúp hình thành và vận chuyển hydrat cacbon, tham gia trong quá trình tổng hợp protein và các hợp chất hữu cơ trong cây.
– Kali làm tăng khả năng hút nước của cây, giúp cây tăng được khả năng chịu hạn, chịu rét và chịu mặn. Bón đầy đủ kali giúp cây hút các chất dinh dưỡng khác tốt hơn. Kali có tác dụng làm giảm tỷ lệ rụng quả, tăng trọng lượng quả và trọng lượng nhân, do vậy làm tăng được giá trị thương phẩm, đồng thời cũng làm cho cây ít bị nhiễm sâu bệnh hơn do cây sinh trưởng khỏe hơn. Kali tham gia cấu thành năng suất từ 27,4 – 44,7%.
Hình ảnh: cây cà phê thiếu kali
– Thiếu kali thường thể hiện ở các lá già, trên cành mang nhiều quả. Các vệt màu nâu thường xuất hiện ở rìa mép lá, rồi lan dần vào giữa phiến lá, cuối cùng thì lá. Thời kỳ cây cà phê mang quả nếu thiếu thì quả rụng nhiều, vỏ quả có màu xám nâu, khi chín quả có màu vàng đỏ nâu, khô và không mọng nước, màu không tươi, nhân nhỏ hơn bình thường. Cây bị thiếu kali thì hàm lượng K2O trong lá dao động từ 0,9 – 1,3%. Theo nghiên cứu với mức bón 350 – 400 kg K2O/HA sẽ làm ổn định năng suất cà phê từ 3 – 4 tấn nhân/ha.
– Khi cây còn nhỏ cây cà phê cần lượng dinh dưỡng kali tương đối nhỏ. Khi bước vào thời kỳ kinh doanh đặc biệt các vườn cà phê cao sản, trong thời kỳ phát triển quả cho đến khi quả thành thục và chín thì nhu cầu dinh dưỡng kali tăng dần.
1.2. NHU CẦU CỦA CÁC YẾU TỐ DINH DƯỠNG TRUNG LƯỢNG ĐỐI VỚI CÂY CÀ PHÊ
1.2.1. Nhu cầu của dinh dưỡng trung lượng S đối với cây cà phê
– Theo phân tích, trong lá cà phê thành phần lưu huỳnh (S) chiếm tỷ lệ cao hơn cả lân. Hàm lượng S trong lá cà phê biến động từ 0,09 – 0,15%, trong hạt từ 0,12 – 0,16%.
– Lưu huỳnh tham gia tạo thành cloruaphyl là thành phần quan trọng của diệp lục đóng vai trò to lớn trong việc tổng hợp các hợp chất hữu cơ nhờ năng lượng của ánh sáng mặt trời. Lưu huỳnh tham gia tổng hợp 3 acid amin tạo thành protein, hoạt hóa men, tổng hợp vitamin…. đặc biệt nó tham gia trong việc cấu tạo các hợp chất thơm cho hạt cà phê, tăng cường tính chịu hạn và chịu nhiệt của cà phê.
– Thiếu lưu huỳnh thường thể hiện ở các lá non trên ngọn. Lá có màu vàng hoặc trắng, bị nặng lá có thể hơi nhỏ so với bình thường. Cần phân biệt được với trường hợp cà phê thiếu đạm là lá già bị vàng hoặc lá bị vàng trên toàn cây. Hiện tượng thiếu lưu huỳnh thường hay xuất hiện ở vườn cà phê kiến thiết cơ bản vào thời kỳ cuối mùa khô đầu mùa mưa. Lá cà phê bị thiếu lưu huỳnh có hàm lượng S trong lá từ 0,06 – 0,09%.
1.2.2. Nhu cầu của dinh dưỡng trung lượng Caxi (Ca) đối với cây cà phê
– Hàm lượng Ca trong lá cà phê dao động từ 0,5 – 1,2%, trong hạt từ 0,4 – 0,7% (tính theo trọng lượng khô).
– Canxi tham gia chủ yếu vào cấu tạo tế bào, làm tăng tính chịu độc nhôm và mangan của cây. Hiện tượng thiếu canxi đối với cà phê thường hiếm thấy trên đồng ruộng.
– Tuy nhiên khi thiếu lá non bị vàng từ rìa lá lan dần vào giữa phiến lá. Lá có màu xanh tối dọc hai bên gân chính của lá, có khi màu xanh này rất nhạt. Khi bị nặng, lá già cũng có triệu chứng như trên. Lá cà phê bị thiếu canxi có hàm lượng Ca trong lá từ 0,4 -0,7%.
1.2.3. Nhu cầu của dinh dưỡng trung lượng Mg đối với cây cà phê
– Hàm lượng Mg trong lá biến động từ 0,3 – 0,5%, trong hạt từ 0,2 – 0,35%.
Hình ảnh: cây cà phê thiếu dinh dưỡng kali (K) và Magie (Mg)
– Triệu chứng thiếu Magiê được phát hiện trên cây cà phê ở lá già, màu vàng bắt đầu từ gân chính, sau lan rộng dần ra rìa lá. Dọc theo gân chính và gân phụ còn lại những vệt xanh thẫm tạo nên dạng hình xương cá có màu xanh trên nền vàng. Sau đó lá chuyển sang màu vàng sẫm hoặc nâu rồi rụng. Khi thiếu Mg hàm lượng Mg trong lá biến động trong khoảng 0,15 – 0,25%.
1.3. NHU CẦU CỦA CÁC YẾU TỐ DINH DƯƠNG VI LƯỢNG ĐỐI VỚI CÂY CÀ PHÊ
1.3.1. Nhu cầu của dinh dưỡng vi lượng kẽm (Zn) đối với cây cà phê
– Hàm lượng kẽm trong lá cà phê biến thiên từ 10 – 15 ppm (phần triệu). Trong 1tấn hạt có chứa khoảng 10 – 15gam.
– Kẽm (Zn) làm tăng tính chịu hạn, chịu nóng, thúc đẩy việc sử dụng và chuyển hóa đạm, lân trong cây. Kẽm đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân hóa mầm hoa, thụ phấn, thụ tinh và hình thành quả. Đất có thành phần cơ giới nhẹ hiện tượng thiếu kẽm khá phổ biến và gây tác hại nghiêm trọng.
1.3.2. Nhu cầu của dinh dưỡng vi lượng Bo đối với cây cà phê
– Hàm lượng Bo trong lá từ 30 – 50 ppm, trong 1 tấn hạt chứa từ 10 – 16gam. Bo có vai trò trong việc tăng số đốt, số cành dự trữ, tăng số mầm hoa. Bo cũng có tác dụng kích thích sự nẩy mầm của hạt phấn, sự tăng trưởng của túi phấn, giúp cho quá trình hình thành quả xảy ra thuận lợi.
– Hiện tượng thiếu Bo thường xảy ra trên đất xám có thành phần cơ giới nhẹ. Khi bị thiếu Bo lá cà phê bị nhỏ lại và ngắn hơn, rìa lá không bình thường, các chồi ngọn hay bị khô, các cành ngang hay bị chết. Hiện tượng cành thứ cấp mọc thành chùm có dạng hình rẽ quạt. Lá có màu xanh ô liu hay xanh vàng nhạt ở nửa cuối lá. Cây bị thiếu Bo thì hàm lượng Bo trong lá khoảng 15 – 25ppm.
1.3.3. Nhu cầu của dinh dưỡng vi lượng Fe đối với cây cà phê
– Hàm lượng Fe trong lá từ 50 – 75 ppm, trong 1 tấn nhân từ 40 – 80gam.
– Sắt không có vai trò rõ ràng đối với sinh trưởng và phát triển của cà phê. Sắt chỉ làm cho màu hạt cà phê đẹp hơn. Trên đất trồng cà phê ở Việt Nam nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng thì hiện tượng cây cà phê bị thiếu sắt rất hiếm khi xảy ra vì pH của đất thấp (4,0 – 5,5) và hàm lượng hữu cơ không cao nhưng hàm lượng sắt trong đất lại cao.
Hình ảnh: biểu hiện cây cà phê thiếu Fe
– Thiếu sắt các lá non hơi chuyển vàng song gân lá vẫn còn xanh có dạng hình mắt lưới. Thiếu sắt hạt cà phê có thể bị vàng. Khi bị thiếu sắt thì hàm lượng Fe trong lá biến động từ 15 – 35ppm.
1.3.4. Nhu cầu của dinh dưỡng vi lượng mangan (Mn) đối với cây cà phê
– Hàm lượng Mn trong lá từ 30 – 50 ppm, trong hạt giao động từ 20 – 40gam. Mangan có vai trò xúc tiến quá trình quang hợp của cây xảy ra tốt hơn. Trên đất có pH thấp rất hiếm xảy ra hiện tượng thiếu Mangan. Tuy nhiên đối với đất rất chua thì ngộ độc Mangan lại dễ xảy ra.
– Thiếu Mangan thì lá ở đầu cành (cặp lá trưởng thành cuối cùng) từ màu vàng hơi xanh sang màu vàng vỏ chanh có xen vệt trắng. Lúc này hàm lượng Mn trong lá từ 10 – 20ppm.
2. CÁCH SỬ DỤNG PHÂN BÓN CHO CÂY CÀ PHÊ HIỆU QUẢ
2.1. Cung cấp dinh dưỡng và bón phân cho cây cà phê vào mùa khô
Bón phân cho cây cà phê thời điểm này cực kỳ quan trọng. Giúp cây cà phê có đủ chất dinh dưỡng kích thích quá trình phân hóa mạnh hơn, hoa không bị sượng, ra hoa đậu quả tập chung và tập chung dinh dưỡng nuôi lớn trái.
Loại phân bón: Sử dụng sản phẩm phân bón Sông Mã chuyên dùng cho cây cà phê mùa khô.
Hình ảnh: bao bì sản phẩm phân bón Sông Mã cây cà phê mùa khô
– Với thành phần và hàm lượng dinh dưỡng: Đạm tổng số (Nts): 20%; Lân hữu hiệu (P2O5hh): 5%; Kali hữu hiệu (K2Ohh): 5%; Đồng (Cu): 50 ppm; Kẽm (Zn): 100 ppm; Bo (B): 100 ppm; Molip đen (Mo): 50 ppm.
– Ngoài những nguyên tố dinh dưỡng đa lượng, sản phẩm còn được bổ sung thêm nhóm dinh dưỡng trung, vi lương chelate (Mg, Ca, Zn, Bo, S,…) là những vi lượng thiết yếu cần thiết cho sinh trưởng của cà phê. Tạo tiền đề cơ bản, bổ trợ hoạt động sống, không thể thiếu của cây.
– Khắc phục tình trạng, khi sử dụng phân hóa học quá nhiều sẽ làm chai đất, đất hóa chua, lượng vi sinh vật đất bị hạn chế. Ngoài dinh dưỡng đa, trung vi lượng cần thiết sản phẩm còn được bổ sung phụ gia là phân của trùn quế, có tác dụng cung cấp thêm dinh dưỡng cho đất, cải tạo đất, giúp đất tơi xốp, tạo điều kiện cho vi sinh vật có lợi hoạt động. Giúp cho khả năng hấp thụ dinh dưỡng được hiệu quả hơn.
– Lượng bón: 400 – 500 g/cây/lần (500 – 600 kg/ha)
– Cách bón: Rải đều phân bón xung quanh tán cây, sau khi rải tưới nhiều nước.
2.2. Cung cấp dinh dưỡng và bón phân cho cây cà phê vào mùa mưa
Bước vào mùa mưa cũng là lúc cà phê bắt đầu tăng nhanh về kích thước kèm theo đó là sự tăng trưởng nhanh của cành chồi do đó việc chăm sóc bổ sung dinh dưỡng cho cây cà phê thời điểm đầu mùa mưa rất quan trọng. Cung cấp đầy đủ dưỡng chất dinh dưỡng và tạo bộ khung cành phát triển mạnh khỏe ở các vụ tiếp theo. Việc bón phân vào đầu mùa mưa rất quan trọng tạo tiền đề để cà phê phát triển tối đa về mặt thể tích cho nhân to về sau. Như vậy việc bổ sung phân bón đợt đầu tiên cho mùa mưa rất quan trọng ở lần bón này yêu cầu phân có hàm lượng đạm và kali cao. Sử dụng sản phẩm phân bón Sông Mã chuyên dùng cho cây cà phê mùa mưa (SÔNG MÃ CÂY CÀ PHÊ MÙA MƯA”
Hình ảnh: Bao bì Sông Mã cây cà phê mùa mưa
– Với thành phần và hàm lượng dinh dưỡng: Đạm tổng số (Nts): 16%; Lân hữu hiệu (P2O5hh): 12%; Kali hữu hiệu (K2Ohh): 15%; Đồng (Cu): 50ppm; Kẽm (Zn): 50 ppm; Bo (B): 150 ppm. Độ ẩm: 5%.
– Ngoài những nguyên tố dinh dưỡng đa lượng, sản phẩm còn được bổ sung thêm nhóm dinh dưỡng trung, vi lương chelate (Mg, Ca, Zn, Bo, S,…) là những vi lượng thiết yếu cần thiết cho sinh trưởng của cà phê. Tạo tiền đề cơ bản, bổ trợ hoạt động sống, không thể thiếu của cây.
– Khắc phục tình trạng, khi sử dụng phân hóa học quá nhiều sẽ làm chai đất, đất hóa chua, lượng vi sinh vật đất bị hạn chế. Ngoài dinh dưỡng đa, trung vi lượng cần thiết sản phẩm còn được bổ sung phụ gia là phân của trùn quế, có tác dụng cung cấp thêm dinh dưỡng cho đất, cải tạo đất, giúp đất tơi xốp, tạo điều kiện cho vi sinh vật có lợi hoạt động. Giúp cho khả năng hấp thụ dinh dưỡng được hiệu quả hơn.
– Lượng bón: 400 – 500 g/cây/lần/năm (500 – 600 kg/ha).
– Bên cạnh yếu tố về liều lượng bón thì kỹ thuật bón phân cũng là vấn đề mà bà con cần quan tâm. Cây cà phê có rễ hút dinh dưỡng nằm ở độ sâu từ 0 đến 20 cm, bởi vậy nếu bón phân quá nông thì phân dễ thất thoát, bón sâu quá khi gặp mưa lớn phân sẽ đi đường trượt đi xuống phần dưới sâu hơn rễ cây không hấp thu được. Theo các nhà khoa học bà con nên cào lớp lá xung quanh hố cà phê bón phân rải quanh lớp tán lá rồi cào nhẹ lớp lá phủ lên bề mặt nhằm thất thoát lượng phân đã bón.
2.3. Cung cấp dinh dưỡng và bón phân cho cây cà phê vào giữa và cuối mùa mưa
– Bón phân cho cây cà phê giữa mùa mưa: giúp cho cây cà phê để cung cấp dinh dưỡng đầy đủ và cân đối cho cây nuôi trái, chống rụng trái, cành nhánh phát triển đồng đều, khỏe mạnh. Đồng thời cũng là để tăng cường khả năng tích lũy dinh dưỡng cho cây.
– Bón phân cho cây cà phê vào cuối mùa mưa: Tiến hành cắt tỉa cành tăm, cành mọc ngược, chồi thân và cắt bớt những cành sương cá yếu để tập trung dinh dưỡng cho cành mang trái. Bón phân thời điểm này giúp tăng cường dinh dưỡng nuôi trái, trái chín đồng đều, đồng thời tích lũy thêm dinh dưỡng giúp cây thực hiện quá trình phân hóa mầm hoa được tốt và ổn định về năng xuất 5 – 7 tấn nhân/ha. Đợt bón này nếu căn được thời gian trước khi thu hoạch 20 – 25 ngày là tốt nhất.
Loại phân bón: Sử dụng sản phẩm phân bón Sông Mã dùng cho cây cà phê vào giữa mùa mưa.
Hình ảnh: bao bì sản phẩm phân bón Sông Mã cây cà phê giữa và cuối mùa mưa
– Với thành phần và hàm lượng dinh dưỡng: Đạm tổng số (Nts): 16%; Lân hữu hiệu (P2O5hh): 3%; Kali hữu hiệu (K2Ohh): 22%; Đồng (Cu): 50ppm; Bo (B): 50 ppm. Độ ẩm: 5%.
– Lượng bón:
+ Giữa mùa mưa: 500 – 600 g/cây/lần (600 – 700 kg/ha).
+ Cuối mùa mưa: 600 – 700 g/cây/lần (700 – 800 kg/ha).
NVKHNN- Trịnh Thị Khương tổng hợp
Bạn đang xem bài viết Nhu Cầu Dinh Dưỡng, Kỹ Thuật Bón Phân Cho Cây Sầu Riêng trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!