Xem Nhiều 3/2023 #️ Hoa Lan Epidendrum – Dân Chơi Lan # Top 4 Trend | Inkndrinkmarkers.com

Xem Nhiều 3/2023 # Hoa Lan Epidendrum – Dân Chơi Lan # Top 4 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Hoa Lan Epidendrum – Dân Chơi Lan mới nhất trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Lan Epidendrum

Tông phụ: Laeliinae

Phân bố: Có khoảng 1.500 loài ở Châu Mỹ, từ miền nam Carolina Bắc tới miền bắc Argentina

Lan biểu sinh, cũng có thể là thạch lan hay địa lan. Thân dạng sậy, đôi khi là hình con quay, ít khi là giả hành. Lá mọc đối xứng, ở gốc lá có lớp vỏ lụa, lá bẹt hoặc nhọn, dưới nhiều hình dạng khác nhau. Vòi hoa phát xuất từ đỉnh hoặc từ một bên, hiếm khi từ gốc, có hoặc không phân nhánh, có 1 đến nhiều hoa. Hoa nhỏ hay lớn tùy theo loài. Lá đài tương tự như nhau, thường không theo quy ước, nói chung là nằm ngang hoặc đối xứng. Cánh hoa gần như lúc nào cũng hẹp hơn lá đài. Môi gắn với một bên của trụ hoa theo chiều dọc để rồi hình thành cái ống chứa mật hoa. Phiến môi liền hoặc có ba thùy, thường là có cấu tạo phức tạp. Khôi phấn 2 hoặc 4.

Có nhiều loài trước đây được mô tả trong giống Epidendrum nay đưa vào giống khác, như Encyclia và Posthechea. Trong khi đó loài Oerstedella thì nay lại đưa vào Epidendrum.

Epidendrum hiện nay được sử dụng rộng rãi để lai tạo với giống khác trong phụ tông Laeliinae, như với Cattleya (cho ta x Epicattleya), và có nhiều loài lai tạo giữa chúng với nhau đang tồn tại.

CÁCH TRỒNG

Do Epidendrum sinh trưởng trên những độ cao khác nhau, từ độ cao ngang mực nước biển đến độ cao 4.000 m, nên tính chất sinh học của chúng cũng khác nhau, do vậy mà khó có thể đưa ra những cách trồng phù hợp với tất cả. Hầu hết các loài trong giống này thích hợp với nhiệt độ trung bình, bóng râm nhẹ, có thể trồng trong hỗn hợp vỏ cây hoặc trồng ghép, nhưng cũng có một số loài lại thích nghi với khí hậu mát hoặc ấm. Coi độ cao nơi chúng sinh trưởng để biết chúng thích nghi với dải nhiệt độ nào. Những loài mà có thân như cây sậy như Epidendrum radicans và E. ibaguensse, và loài lai như E. x obrienianum (E. ibaguense x E. secundum) lại ưa khí hậu ấm, nhiều nắng, có thể được trồng rộng rãi ở vùng nhiệt đới hoặc á nhiệt đới.

Lan Epidendrum amethystinum

Thân dạng sậy, ngắn, mọc thành từng cụm. Vòi hoa cong hoặc rủ, có nhiều hoa mọc sít nhau. Hoa nở không mở rộng, to chừng 15 mm, màu đỏ tươi đậm đến màu tím hoa cà ngả hồng. 

Môi có màu xỉn hơn lá đài và cánh hoa. Thích hợp với khí hậu mát.

Lan biểu sinh trên vùng cao, ở Ecuador

Lan Epidendrum anceps

Thân cao 30-60 cm, mọc thành cụm. Có nhiều lá, lá dài 20 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa cụt, dài 50 cm. Hoa tập trung ở phần đỉnh của vòi hoa. Hoa to 15 mm. Lá đài và cánh hoa màu nâu xanh đến màu sô-cô-la. Môi màu xanh pha hồng.

Lan biểu sinh, ở rừng nhiều mưa, trên độ cao chừng 100 m, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ, quần đảo Indies ở phía tây. 

Lan Epidendrum avicula

Cùng loài: Lanium avicula (Lindley) Bentham. 

Với tính chất bò lan của chúng, việc trồng loài lan này nên bằng cách ghép chúng vào những thanh gỗ ghép. 

Lan biểu sinh, trong những khu rừng rất ẩm, trên độ cao 1.200 m, ở Brasil, Ecuador, Peru.

Lan Epidendrum centradenia

Cùng loài: Oerstedella centradenia Reichenbach f.

Thân nhỏ, dạng sậy, cao 40 cm. Lá mọc đối xứng, dài 6 cm, rộng 0,5 cm. Vòi hoa mọc từ phần nhọn của thân, thường không phân nhánh, có nhiều hoa. Hoa màu hồng ngả đỏ tươi, to 1 cm. Môi có ba thùy, thùy giữa thụt sâu vào.

Lan biểu sinh, trong những khu rừng nhiều mưa, và rừng mây phủ, trên độ cao 800-1.800 m, ở Mexico, Trung Mỹ 

Lan Epidendrum ciliare

Các lá đài và cánh hoa ngả xanh. Môi trắng, có ba thùy sâu, thùy giữa thẳng, thùy hai bên như những cái tua dài. 

Lan biểu sinh hoặc thạch lan, trong các khu rừng nhiều mưa và những khe núi có độ ẩm cao, trên độ cao 700-1.900 m, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ, quần đảo Indies ở phía tây 

Cùng loài: Epidendrum aerstedii Reichenbach f. ở Trung Mỹ, có hoa hơi nhỏ và hai thùy bên của môi không giống tua.

Lan Epidendrum cinnabarinum

Thân dạng sậy, cao 1,3 m, có nhiều lá. Vòi hoa cụt, có hoặc không phân nhánh, có nhiều hoa, hoa nở liên tục trong một thời gian dài. 

Hoa to 6 cm, màu đỏ sáng đến màu cam. Môi có ba thùy, viền môi như bị cắt sâu.

Lan biểu sinh, thạch lan hoặc địa lan ở những khu vực lộ thiên trong các rừng cây ở vùng đất thấp, trên độ cao 50-850 m, ở Brasil, Venezuela

Lan Epidendrum coriifolium

Thân dài 20-35 cm, lá mọc hướng lên đỉnh thân, tạo thành cụm. Lá cứng, dài 17 cm, rộng 1,5 cm. Vòi hoa phát xuất từ đỉnh thân, có nhiều hoa, hoa màu xanh hoặc xanh ngả vàng, đôi khi pha màu đỏ tía, lá bắc dày, dễ thấy.

Các lá đài dài 12-20 mm. Môi liền, hình trái tim 

Lan biểu sinh hoặc thạch lan, trong các khu rừng nhiều mưa, trên độ cao 900-1.500 m, ở Costa Rica, Mexico, Panama 

Lan Epidendrum coronatum

Thân cao 50-100 cm, nhiều lá, lá mọc hướng lên ngọn thân. Lá dài 17 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa phát xuất từ đỉnh, uốn cong hoặc buông rủ, dài 7-20 cm, có nhiều hoa, hoa to 3-4 cm, màu trắng ngà đến màu xanh ngả vàng. Cánh hoa và lá đài phẳng. Môi có ba thùy, thùy giữa chẻ thành hai thùy ở đỉnh.

Lan biểu sinh, hiếm khi là thạch lan, trong những khu rừng nhiều sương, trên độ cao 200- 600 m, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ, Trinidad. 

Lan Epidendrum difforme

Lan biểu sinh trong các khu rừng thưa ở Antilles.

Lan Epidendrum flexuosum

Cùng loài: Epidendrum imatophyllum Lindley 

Thân giống cái gậy, cao 1 m. Lá dài 20 cm, rộng 3 cm, màu xanh nhạt. Vòi hoa cụt, dài 25 cm, đôi khi có phân nhánh. Hoa mọc sít nhau, hoa to 2-3 cm, màu hồng đến đỏ tía. Môi có ba thùy cuộn lại, viền môi có răng cưa hoặc có tua.

Lan biểu sinh, trong những khu rừng ven sông và rừng có nhiều mưa, trên độ cao 0-900 m, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ, Trinidad.

Lan Epidendrum gastropodium

Hoa tập trong ở trên đầu thân, hoa nhỏ, có màu đỏ tía sáng với một mô sần màu cam và trụ hoa màu đen.

Là loài lan có khí hậu mát, thông gió tốt và độ ẩm cao.

Lan biểu sinh, hiếm khi là địa lan, trong những khu rừng mây phủ, trên độ cao 1.500- 3.400 m ở Colombia, Ecuador

Lan Epidendrum ibaguense

Thân giống cây gậy nhỏ, bao phủ bởi lớp vỏ lụa, thân cao 2 m, rễ mọc từ các đốt cây. Lá dài 12 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa cụt, đứng thẳng, dài 70 cm, đôi khi có phân nhánh, có nhiều hoa, hoa nở liên tục trong một thời gian dài. Màu sắc của hoa trông bắt mắt, hoa to 3-3,5 cm, màu cam đến màu đỏ sáng. Môi có ba thùy sâu, thùy bên tròn, có răng cưa không đều hoặc có tua.

Thùy giữa lại chẻ đôi, các thùy có tua.  

Là địa lan hoặc thạch lan, có trường hợp là lan biểu sinh, trong những bụi cây thưa, trên độ cao 50-1.500 m, ở Trung và Nam Mỹ, ở Trinidad. 

Cùng loài: Epidendrum secundum Jacquin 

Hoa có những mô sần phức tạp, rễ cũng có những u. Và loài Epidendrum xanthinum Lindley, ở Colombia và Brasil có hoa màu vàng sau này chuyển sang màu cam.

Lan Epidendrum ilense

Lan biểu sinh hoặc địa lan, trong các khu rừng nhiều mưa, với những vùng đất gần bờ biển, nơi mà ngày nay người ta đang phát quang làm mất môi trường sống của chúng. Ở Ecuador

Lan Epidendrum incomptum

Cây cao 30-70 cm. Chồi mới được hình thành từ đốt giữa của thân đã xuất hiện từ năm trước, kèm theo là rễ mới. Có 3-4 lá gần ngọn, lá dài 13 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa phát xuất từ đỉnh thân, không phân nhánh, uốn cong, không có nhiều hoa, cánh hoa dầy. các lá đài dài 11-16 mm. Môi có ba thùy, không có mô sần, thùy giữa dài hơn hai thùy bên. Loài lan này cần khí hậu mát, tốt hơn là nên trồng bằng cách ghép.

Lan biểu sinh, trong những khu rừng nhiều mưa, trên độ cao 1.200-1.800 m, ở Costa Rica, Guyana, Mexico, Panama.

Lan Epidendrum lacustre

Vòi hoa phát xuất từ đỉnh, không phân nhánh, dài 30-40 cm, có 4-10 hoa, hoa to 7-8 cm. Các lá đài và cánh hoa màu xanh, môi trắng, có ba thùy, hai thùy bên tròn, thùy giữa có hình tam giác hẹp.

Lan biểu sinh hoặc thạch lan, trong những khu rừng nhiều mưa hoặc mây phủ, trên độ cao 1.200-1.450 m, ở Trung và Nam Mỹ.

Lan Epidendrum laucheanum

Thân thẳng đứng, không phân nhánh, cao 20-30 cm. Lá hình mũi mác thẳng, dài 17 cm, rộng 1,5 cm. Vòi hoa mọc từ đỉnh, không phân nhánh, uốn cong hoặc buông rủ, dài 25-70 cm, có nhiều hoa. Cánh hoa dày, hoa lâu tàn, to 2,5 cm. Các lá đài và cánh hoa màu nâu vàng. Môi màu xanh, cam hoặc màu đỏ tía, hình lòng chảo với một gân dày nổi ở giữa. Chúng cần nơi mát, thường xuyên ẩm.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng nhiều mưa và hoặc mây phủ, trên độ cao 1.000-2.100 m, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ. 

Lan Epidendrum longipetalum

Thân ngắn. Có 2-3 lá ở đỉnh. Vòi hoa không phân nhánh, dài 50-75 cm, hoa nở liên tục trong một thời gian dài. Hoa dài 4-5 cm, màu xanh hoặc màu đồng đỏ. Các cánh hoa nhỏ và dài.

Môi gần như tròn, ba thùy cuộn lại.

Lan biểu sinh, thỉnh thoảng là thạch lan, trong các khu rừng mây phủ, trên độ cao 1.700- 2.600 m, ở Mexico

Lan Epidendrum macroclinium

Thân hình trụ, cao 7-28 cm. Lá dài 11 cm, rộng 1 cm, xoắn lại ở gốc, vì thế mà là nằm dọc theo thân. Vòi hoa phát xuất từ đỉnh, không phân nhánh, có một số hoa, hoa nở liên tục trong một thời gian dài. Hoa nhỏ màu hồng ngả vàng trong suốt. Môi vàng pha màu hồng và đỏ. 

Phần nắp bao phấn dài hơn nhiều so với phần còn lại của trụ hoa.

Môi trường thích hợp là ấm, ẩm và dưới bóng râm.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng nhiều mưa nhiệt đới, trên độ cao 150-1.000 m, ở Mexico, Trung Mỹ.

Lan Epidendrum magnoliae LAN CON RUỒI XANH

Cùng loài: Epidendrum conopseum R. Brown

Cây cao 30 cm, hình thành những cụm lớn. 

Có 2-3 lá, lá dài 10 cm, rộng 1,5 cm. Vòi hoa có cọng hoa ở đỉnh, các hoa mọc thưa, có khoảng 20 hoa, hoa to 25 mm, có hương thơm, màu xanh vàng, thỉnh thoảng pha màu đỏ tía. Các lá đài và cánh hoa tương tự nhau. Môi có ba thùy, 

Đây là loài lan biểu sinh duy nhất được tìm thấy ở Hoa kỳ bên ngoài Florida, mọc ở cực bắc của Bắc Carolina.

Lan biểu sinh, sống trên các cành cây lớn của rừng rậm và những cây rụng lá, trên độ cao chừng 1.500 m, ở miền đông Hoa kỳ và Mexico.

Lan Epidendrum marmoratum

Thân cũng là giả hành, hình điếu xì-gà, có 2 lá ở đỉnh. Lá rộng và dài. Vòi hoa uốn cong, có nhiều hoa, hoa to 3 cm, có những sọc và vết đốm màu trắng và màu hạt dẻ. Môi rộng với vô số các tua dọc theo.

Lan biểu sinh, trong các rừng sồi và rừng thông, trên độ cao 1.000-1.500 m, ở Mexico.

Lan Epidendrum nocturnum.

Đây là một biến loài vả có mặt ở nhiều nơi. 

Thân giống cây sậy, cao 1 m. Lá dai, dài 11 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa cụt, đôi khi có phân nhánh, có 1 đến vài hoa, hoa to, có hương thơm. Các lá đài và cánh hoa dài 80-90 mm, khá hẹp, màu trắng đến xanh vàng, thường pha màu đỏ tía. 

Môi trắng, vàng ở chân, có ba thùy xẻ sâu, thùy giữa dài 55 mm, hẹp và nhọn, hai thùy bên hình trứng.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng nhiều mưa, đôi khi là thạch lan hay địa lan, trên độ cao 0-1.000 m, ở Florida thuộc Hoa kỳ, Mexico, Trung và Nam Mỹ.

Cùng loài: Epidendrum fl oribundum Kunth 

Thân giống cây gậy, cao 2 m. Lá dài 18 cm, rộng 5 cm, lá pha màu đỏ tía, thuộc loài rụng lá theo mùa. Vòi hoa cụt, dài 30 cm, có phân nhánh, có vài đến nhiều hoa, hoa có hương thơm thoang thoảng, to 2,5 cm.

Các lá đài và cánh hoa có màu trắng ngả xanh đến trắng ngả đỏ. Các lá đài thường đối xứng, cánh hoa nhỏ như sợi chỉ. Môi trắng có những vết đỏ tía, có ba thùy, thùy bên tròn, thùy giữa chia làm hai.

Lan biểu sinh, hoặc địa lan, trong các khu rừng nhiều sương, trên độ cao 2.000 m, ở Trung và Nam Mỹ

Loài tương tự: Epidendrum veroscriptum Hágsater ở Mexico, các lá đài và cánh hoa màu xanh mờ và cái môi trắng với một mô sần, chung quanh có những đốm màu hạt dẻ.

Lan Epidendrum parkinsonianum

Thân ngắn, có 1 lá, lá mọc từ một thân bò lan, mập mạp, đôi khi thân rễ có phân nhánh.

Phiến lá rất dày, dài 50 cm, rộng 3 cm, rủ xuống và hơi cong. Vòi hoa ngắn và cong, có 2-5 hoa, hoa to màu rực rỡ, có hương thơm. Cánh hoa và lá đài hình mũi mác thẳng, màu xanh xỉn hoặc màu xanh vàng. Môi trắng với những đốm vàng ở họng, môi có ba thùy sâu, hai thùy bên hình trứng không cân xứng, thùy giữa thẳng, dài 55 mm.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng nhiều mưa hoặc mây phủ, trên độ cao 1.500-1.600 m, ở Mexico, Trung Mỹ 

Loài tương tự: Epidendrum falcatum Lindley, ở Mexico, có hoa pha màu hồng.

Lan Epidendrum peperomia

Cùng loài: Epidendrum porpax Reichenbach  f. Dwarf.

Là loài có thân bò lan, cao 8 cm, hình thành tấm thảm. Lá dài 8 cm, rộng 1 cm. Vòi hoa có 1 hoa, hoa to 2,5 cm. Lá đài và cánh hoa thẳng,  nhỏ và có màu xanh xỉn. Môi hình bán cầu, màu nâu đỏ mờ.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng nhiều mưa, trên độ cao 1.300-1.500 m, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ.

Lan Epidendrum peraltum

Cùng loài: Epidendrum altissimum Lehmann & Kraenzlin 

Thân giống cây sậy. Vòi hoa ngắn, có phân nhánh, dài 12 cm, có vài hoa đến nhiều hoa, hoa to 2,5 cm, màu đỏ tía lợt.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng mây phủ, trên độ cao 1.850-3.100 m, ở Colombia, Ecuador.

Lan Epidendrum porphyreum

Thân nhỏ, dạng cái gậy. Lá thẳng. Có một số vòi hoa phát xuất cùng một lúc, có vài hoa đến nhiều hoa, hoa mọc sít nhau, hoa to 1 cm, màu đỏ tía hoặc màu đỏ tia cùng đỏ tươi, có những vết trắng ở môi. Môi có ba thùy, thùy giữa lại chẻ làm đôi.

Lan biểu sinh, trong những khu rừng ẩm ướt, đôi khi thấy chúng là thạch lan hoặc địa lan trên sườn núi, trên độ cao 1.800-3.900 m, ở Colombia, Ecuador

Lan Epidendrum pseudepidendrum

Vòi hoa phát xuất ở đỉnh hoặc gần đỉnh của thân, vòi hoa uốn cong, có ít hoa. Hoa có màu nổi bật, to 6-7 cm. Các lá đài và cánh hoa màu xanh táo, thẳng, hẹp và thường có hình mũi mác ngược. Môi có màu cam sáng hoặc cam ngả đỏ, môi hình bán cầu lồi, riềm môi có tua. 

Lan biểu sinh, trong những vườn cây ẩm ướt và trong những khu rừng có nhiều mưa, trên độ cao 200-1.700 m, ở Costa Rica, Panama.

Lan Epidendrum purum

Lan biểu sinh, trong rừng, trên độ cao 500-2.800 m, ở Colombia, Ecuador, Peru, Venezuela

Lan Epidendrum radicans

Hoa to 2,5 cm, màu cam vàng hoặc đỏ. Lá đài và cánh hoa phẳng. Môi có ba thùy, quanh viền có tua. Trụ hoa cong.

Loài này được trồng rộng rãi và trở thành cây tự nhiên ở nhiều nơi trên thế giới. Chúng rất dễ trồng ở  những nơi có khí hậu ấm áp, hoặc nhiệt độ trung bình.

Là địa lan hoặc thạch lan, trong các khu rừng nhiều mưa hoặc mây phủ, trên độ cao 400-1.900m, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ, Caribbean.

Lan Epidendrum ramosum

Lan biểu sinh, trong rừng có nhiều mưa và mọc lộ thiên trên đỉnh núi, trên độ cao 450-1.600 m, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ, quần đảo Indies ở phía tây

Lan Epidendrum rigidum

Thân đứng, dài 25 cm, mọc lên từ thân rễ bò lan. Có nhiều lá, lá hình đai (strap), dài 9 cm, rộng 2,5 cm. Vòi hoa không phân nhánh, dài 15 cm, có nhiều hoa, hoa mọc kế tiếp nhau. 

Hoa nhỏ, có hương thơm, màu xanh, một phần của hoa bị che khuất bởi lá bắc. Đây là một loài được trồng rộng rãi và khá phổ biến.

Lan biểu sinh, trong những khu rừng ven sông và những khu rừng có nhiều mưa, trên độ cao 50-1.500 m, ở Florida, Mexico, Trung và Nam Mỹ.

Lan Epidendrum sophronitoides

Lan biểu sinh, trong những khu rừng mây phủ, trên độ cao 1.400-3.300 m, ở Ecuador.

Lan Epidendrum stamfordianum

Lan biểu sinh, trong những khu rừng vùng đất thấp và khu rừng có nhiều mưa, trên độ cao 100-1.050 m, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ.

Hình:

Nguồn tài liệu : SÁCH HOA LAN ( của Bác Phạm Tiến Khoa )

Hoa Lan Disa – Dân Chơi Lan

Hoa lan Disa

Tông: Diseae

Tông phụ: Disinae

Phân bố: Khoảng 160 loài ở miền nhiệt đới châu Phi và Đông Phi, với 1 loài ở Arabia và 4 loài ở Madagsacar và quần đảo Mascarene

Là địa lan thân thảo, với thân hình cầu, hình trứng hoặc hình ê-lip. Lá mọc hoặc là trên thân đang mang hoa hoặc là trên các chồi đã cằn. Vòi hoa không phân nhánh, có từ 1 đến nhiều hoa, hoa nổi bật. Các lá đài không theo quy ước, lá đài sau trông giống cái cựa, thường thì nó làm thành cái mũ chụp đầu, hai lá đài bên phẳng.

Các cánh hoa nhỏ hơn, đôi khi có phân thùy, thường thì ẩn mình bên trong cái mũ chụp. Môi hoa có khi hình đai (strap), nhưng cũng có khi có xẻ thành tua sâu. Trụ hoa ngắn, nắp phấn hoa đứng thẳng, nằm ngang hoặc đối diện so với đầu nhụy nằm dưới nó. Khối phấn 2.

Sau khi phân tích ADN, một số loài trước kia được phân thành một giống riêng như Monadenia và Herschelianthe (cùng loài Herschelia) nay được đưa cả vào giống Disa.

CÁCH TRỒNG

Lan Disa bao gồm nhiều cây rất đáng yêu, nhưng chỉ có một số loài thường được trồng là những loài luôn giữ được màu xanh có liên hệ đến loài Disa uniflora. Đây là những loài ưa trồng nơi mát, chúng có nhu cầu trồng ngoài trời nhưng không phải dưới ánh sáng trực tiếp của mặt trời.

Chúng có nhu cầu được giữ ẩm quanh năm, dù vậy khi cây đang phát triển thì cần tăng cường tưới nước. Một số nhà trồng lan đã đặt ống tưới nhỏ giọt thẳng vào chậu lan. Các cây thuộc giống Disa có thể trồng thành công nếu như ta dùng rêu nước, có hoặc không có đá trân châu (loại đá ngậm nước), cùng với sỏi lấy từ sông để chúng thoát nước tốt. Chúng có thể hấp thụ tốt nhưng cũng không nên bón nhiều phân. Những loài lan lai từ Disa uniflora cũng trồng cùng cách như vậy.

Những cây phát triển mạnh vào mùa đông mang về từ khu vực mưa nhiều về mùa hè ở Nam Phi, như loài Disa sagittalis, có thể được trồng ở lòng chảo với các chất trồng sao cho thoát nước tốt. Khi tưới cần lưu ý đến chồi xanh mới xuất hiện. Sau khi đã ra hoa, cây sẽ chết, cần giữ khô cho đến khi thấy chồi mới hình thành, chỉ cần tưới nhỏ giọt để đề phòng chồi mới bị chết.

Những loài thuộc khu vực nhiệt đới và rụng lá theo mùa thì ít khi được trồng, một phần là do chúng khá khó trồng, một phần là cũng khó tìm thấy chúng. Những loài mà đã từng đưa vào giống Herschelianthe (thí dụ như Disa baueri) là những cây đẹp, với hoa màu xanh dương và cái môi có xẻ tua sâu. Những loài này có trồng ở Nam Phi nhưng ít thấy nơi nào thành công.

Lan Disa cardinalis

Hoa có màu đỏ sáng, to 5 cm. Lá đài sau hình thành một cái mũ chụp, mang theo một cái cựa hình côn. Ra hoa vào mùa xuân-hè.

Hình thành từng nhóm bên dòng suối, trên độ cao chừng 600 m, ở Nam Phi (tỉnh Cape).

Lan Disa crassicornis

Cây khỏe, thuộc loài lan rụng lá theo mùa, cao tới 100 cm. Vòi hoa có 5-15 hoa, hoa to 5 cm, có hương thơm, màu trắng kem và có những đốm màu hồng hoặc đỏ tía. Lá đài sau hình thành cái mũ chụp như ống khói tàu hỏa, dài 20-40 mm, cái cựa hình trụ đầu nhọn như búp măng và uốn cong ngược lại, dài 30-40 mm. 

Sống trong các vùng đồng cỏ, trên độ cao 1.000-2.700 m, ở Nam Phi, Lesotho

Lan Disa racemosa

Là loài lan không rụng lá, lá mọc từ gốc có hình hoa thị, dài 9 cm. Chùm hoa cao 7-100 cm, không thật nhiều hoa, hoa có thể mọc sít nhau hoặc thưa thớt. Hoa màu trắng hoặc màu hồng pha tím hoa cà. Lá đài sau cong lòng chảo với một dấu vết của cái cựa, lá đài hai bên phẳng, dài 15-25 mm.

Ra hoa vào mùa hè.

Thường sống ở vùng đầm lầy, chúng ra hoa sau khi người ta đốt đồng, trên độ cao 0-1.200 m ở Nam Phi (miền tây và nam Cape)

Loài tương tự: Disa venosa Swartz, cũng ở miền tây Cape, có màu hoa đậm hơn và hình dáng lá đài sau cũng khác hơn.

Lan Disa sagittalis

Lan rụng lá theo mùa, cao 30 cm với các lá có hình hoa thị mọc từ gốc, vỏ lụa của lá bao bọc dọc thân. Vòi hoa có thể có nhiều hoa mọc sít nhau hoặc thưa thớt. Hoa nhỏ, màu trắng hoặc màu tím hoa cà. các cánh hoa thường có màu đậm hơn. Lá đài dài 10 mm. Chúng mọc trên đá hoặc trong các khe đá, thường bên cạnh bờ suối, trên độ cao 0-1.000 m, ở Nam Phi (miền đông và miền nam Cape và KwaZulu-Natal).

Lan Disa tripetaloides

Mọc bên các bờ suối và sườn đồi ẩm thấp, trên độ cao 0-1.000 m, ở Nam Phi (tỉnh Cape, KwaZulu-Natal)

Loài tương tự: Disa aurata (Bolus) L. T. Parker & Koopowitz (cùng loài Disa tripetaloides var. aurata Bolus), có hoa lớn hơn một chút, hoa màu vàng sáng.

Lan Disa uniflora

Cây không rụng lá, cao 60 cm. Lá mọc theo thân, dài 25 cm, lá dài nhất là ở phần gốc. Vòi hoa có 1 đến một số hoa. Hoa to 8-12 cm, màu nổi bật, thường là màu đỏ sáng, bên trong cái mũ chụp đầu có màu cam với những đường vân màu đỏ, nhưng cũng có trường hợp là màu vàng hoặc hồng. Lá đài sau dựng đứng, cong lòng chảo, có kích thước 20-60 x 15-20 mm. Cựa dài 10-15 mm. Lá đài hai bên phẳng, dài 65 mm.

Loài lan đẹp này thường được dùng để lai tạo, chủ yếu với các loài cùng giống như Disa cardinalis, D. racemosa và D. uniflora. Có khoảng 85 loài lai tạo với Disa đã được đăng ký, chủ yếu vẫn là với D. uniflora làm cây chính.

Cây mọc dọc theo suối và các tảng đá có nước thấm qua, dưới bóng râm hoặc trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời, trên độ cao 100-1.200 m, ở Nam Phi (miền tây và tây nam Cape).

Nguồn tài liệu từ: Sách hoa lan ( của Bác Phạm tiến Khoa )

Lan Mokara – Dân Chơi Lan

Lan Mokara

Nguồn : vuonhoalan.net

Mokara là nhóm giống hoa lan được lai tạo từ các giống: Arachnis+Vanda+Ascocentrum.

Lan Mokara là giống lan có nhiều trong họ Lan (Orchidaceae), Mokara phân bố trên các vùng thuộc Châu Á nhiệt đới, tập trung nhiều nhất ở Đông Nam Á. Nếu như các nước Nam Mỹ tự hào về các loài thuộc giống Cattleya tuyệt đẹp của mình, thì các nước Đông Nam Á cũng hãnh diện vì có giống Mokara vô cùng phong phú, điều kiện sinh thái cũng rất đa dạng.

Mokara là nhóm giống hoa lan được lai tạo từ các giống: Arachnis+Vanda+Ascocentrum. Nhóm giống này có đặc điểm tương tự như nhóm Vanda là loài lan đơn thân, thân hình trụ dài tiếp tục mọc cao lên mãi, không có giả hành, lá dài hình lòng máng hay hình trụ mọc cách hai bên thân.

Phát hoa mọc từ nách lá giữa thân, phát hoa dài mang nhiều hoa thường không phân nhánh. Hoa cỡ trung bình đến lớn, cánh đài của hoa rất lớn. Hoa có nhiều màu sắc phong phú từ trắng, tím, hồng đỏ, cam đến vàng nâu, xanh. Trên cánh hoa thường có chấm, có đốm hoặc hình carô nhìn rất đẹp.

Nhiệt độ thích hợp cho lan Mokara phát triển là từ 25-30 độ C. Nhiệt độ là một trong những yếu tố quyết định sự ra hoa của Mokara. Nếu nằm ngoài ngưỡng nhiệt thích hợp cây sẽ ra hoa kém chất lượng hoặc có khi không ra hoa được.

Rễ của Mokara là rễ trần (rễ phơi ra ngoài không khí) nên đòi hỏi ẩm độ của vườn rất cao. Cây lan Mokara không chịu úng nên phải trồng thật thoáng. Vì có đặc điểm là cây đơn thân, không có giả hành nên khả năng mất nước rất lớn, từ đó làm cây sinh trưởng kém. Do đó, phải thường xuyên tưới nước mỗi ngày 2 lần cho cây (vào sáng sớm và chiều mát).

Các chậu lan Mokara treo màu sắc tươi sáng, hoa đẹp với hương thơm thoang thoảng góp phần làm thanh mát không khí, tạo cảm giác thoải mái cho người thưởng lan. Chậu treo này có thể trang trí giàn treo vườn nhà, trang trí sân thượng, treo tại cầu thang với tiểu cảnh giếng trời, trang trí không gian các quán cafe, nhà hàng… Hoặc dùng làm quà tặng khai trương, tặng khách hàng, sưu tầm…

(BlogCayCanh.vn)

Nhân Giống Lan Cắt Cành Mokara

Nhóm hoa lan Mokara là nhóm giống chủ lực trong việc phát triển diện tích và cung cấp sản phẩm hoa lan cắt cành tại TP. Hồ Chí Minh. Hiệu quả của việc trồng hoa lan cắt cành rất cao, nhu cầu tiêu thụ của thị trường nội địa và xuất khẩu cũng rất lớn.

Mokara là nhóm giống hoa được lai tạo từ các giống: Arachnis x Vanda x Ascocentrum. Nhóm giống này có đặc điểm tương tự như nhóm Vanda là loài Lan đơn thân, thân hình trụ dài tiếp tục mọc cao lên mãi, không có giả hành, lá dài hình lòng máng hay hình trụ mọc cách hai bên thân. Phát hoa mọc từ nách lá giữa thân, phát hoa dài mang nhiều hoa thường không phân nhánh. Hoa cỡ trung bình đến lớn, cánh đài của hoa rất lớn. Hoa có nhiều màu sắc phong phú từ trắng, tím, hồng đỏ, cam, vàng nâu, xanh. trên cánh hoa thường có chấm, có đốm hoặc hình carô rất đẹp. Nhóm giống này rất thích hợp với việc trồng sản xuất hoa cắt cành do siêng ra hoa, có thể đạt 6 – 8 phát hoa/năm.

Tuy nhiên, hiện nay giá cây giống còn cao, như cây giống hoa lan Mokara từ 40.000 – 45.000 đ/cây với kích cỡ trung bình 35 – 40 cm. Nếu đầu tư một diện tích vườn lan tối thiểu khỏang 1.000 m2 nhà lưới thì số lượng cây giống phải đầu tư trung bình là 4.000 cây, giá trị cây giống lên tới 160 – 200 triệu đồng. Chưa kể giá thành nhà lưới và vật tư cần thiết khác từ 60 – 80 triệu đồng/1.000 m2 nhà lưới. Chi phí ban đầu cho cây giống hoa lan Mokara chiếm tới 70% tổng chi phí. Do đó việc giảm giá thành cây giống để cung cấp cho người sản xuất, mở rộng diện tích đang rất bức xúc.

1- Nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô ( in vitro )

Đây là phương pháp nhân giống chung được áp dụng cho hoa lan rất hiệu quả. Từ một cây mẹ ban đầu có thể nhân ra hàng ngàn cây có kích thước và chất lượng đồng đều như nhau, giúp việc nhân giống được nhanh hơn. Nếu chọn lựa cây mẹ ban đầu tốt, như có đặc tính ra hoa liên tục. Nhược điểm duy nhất của phương pháp nhân giống bằng cấy mô là từ cây cấy mô đến khi ra hoa thời gian kéo dài tối thiểu là 3 – 4 năm cây mới ra hoa nếu chăm sóc tốt. Trong khi đó cây trồng bằng hom cắt từ đọt cây mẹ chỉ cần 3 – 6 tháng đã ra hoa. Như vậy thời gian chăm sóc kéo dài, mặc dù giá thành cây giống ban đầu thấp.

2- Nhân giống từ hom:

Đây là phương pháp nhân giống đơn giản bằng cách cây con được cắt thẳng từ đọan trên cùng ( đọt ) của cây mẹ. Thông thường tùy theo yêu cầu quy cách hom giống tối thiểu phải bao gồm từ 2- 3 rễ đâm ra từ thân cây mẹ. Kích cỡ thường để trồng là tối thiểu 25 – 30 cm, có thể tới 50 – 60 cm. Hom càng dài thì khả năng cây càng khỏe do có nhiều rễ, sau khi cắt trồng sang vườn mới thì khả năng phục hồi nhanh, mau ra hoa trở lại. Tùy theo đặc tính giống, sau 3 tháng cây con cắt từ đọt đã có thể cho hoa nhưng thông thường để dưỡng cây người ta cắt bỏ các phát hoa ở giai đọan này.

Nhược điểm của phương pháp này là giống đợt đầu nhân ra với số lượng hạn chế, cứ một cây mẹ thì cắt được một đọt – tức 1 cây con. Tuy nhiên sau khi cắt đọt, cây mẹ nếu chăm sóc tốt từ các nách lá, tập trung phần trên gần chỗ cắt sẽ ra tiếp tục các mầm cây con. Thông thường từ cây mẹ sẽ ra được 2 – 3 chồi, tối đa có thể 4 chồi, sau khoảng 6 tháng cây con sẽ phát triển hoàn chỉnh và có thể tách ra để trồng. Giá thành cây giống cũng cao giống như cây mẹ.

3- Nhân giống từ hom có cải tiến:

Biện pháp cắt hom lấy phần ngọn làm cây giống, còn phần gốc sẽ phát triển các chồi con thành cây thành phẩm để trồng đang được nhà vườn trồng lan cắt cành Mokara áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, một điểm hạn chế của phương pháp này là hệ số nhân chồi không cao. Từ một cây mẹ ban đầu, sau khi cắt hom, lấy phần ngọn ta được 01 cây thành phẩm thì số lượng chồi con sinh ra không nhiều, từ 2 – 3 chồi, tối đa có thể 4 chồi. Để cải thiện hệ số này, chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm bằng áp dụng các biện pháp kỹ thuật để tác động vào để nâng cao khả năng ra chồi của các giống Mokara. Các lọai phân bón lá có hàm lượng đạm cao như 31-11-11 kết hợp lọai có chứa axit amin, rong biển được phun liên tục vào thời điểm trước khi cắt đọt 1 tháng và sau khi cắt 6 tháng.

Hình : Cây lan Mokara được xử lý ra chồi sau khi cắt đọt 3 tháng

Kết quả thu được cho thấy: đối với cả 2 giống thí nghiệm, tất cả các công thức có xử lý phân bón lá 31-11-11 kết hợp với rong biển, phân Terra Sorb ( có chứa acid amin ) đã cho số lượng chồi thu được cao hơn hẳn so với đối chứng từ 64 – 114%. Cũng như cao hơn so với công thức chỉ xử lý phun phân bón lá lọai 31-11-11. Số lượng chồi đạt tiêu chuẩn sau 6 tháng cắt đọt trong công thức này cũng cao hơn so với công thức đối chứng và công thức phun 31-11-11. Trong công thức có xử lý rong biển là lọai phân bón lá có chứa chất kích thích sinh trưởng Cytokinin. Đây là loại chất điều hòa sinh trưởng có tác dụng kích thích sự phân hóa cơ quan của thực vật, đặc biệt là phân hóa chồi. Nếu tỷ lệ Auxin cao hơn Cytokinin thì kích thích ra rễ, còn tỷ lệ Cytokinin cao hơn Auxin thì kích thích sự phát triển của chồi nách, giải phóng cây khỏi sự kìm hãm của chồi ngọn. Ngoài ra, lọai phân bón có chứa acid amin cũng góp phần cho sự phát triển về chiều cao của các chồi nách sau khi đọt cây mẹ bị cắt.

TS. Dương Hoa Xô

Hoa Lan Oncidium (Lan Vũ Nữ) – Dân Chơi Lan

Oncidium (Lan Vũ nữ)

Tông: Maxillarieae

Tông phụ: Oncidiinae

Phân bố: Có khoảng 270 loài ở vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới của châu Mỹ.

Lan biểu sinh, thạch lan hoặc địa lan, cây thân rễ ngắn hoặc dài. Giả hành có kích thước và hình dáng khác nhau, đối diện với các lớp vỏ lụa đối xứng. Có 1-4 lá. Vòi hoa phát xuất từ gốc, thường phân nhánh, đứng thẳng, uốn cong hoặc buông rủ và rất dài, có vài hoa đến nhiều hoa, hoa có màu nổi bật, khi là vàng khi là nâu. Các lá đài tương tự nhau, các cánh hoa thường rộng hơn. Môi thẳng góc với trụ hoa, môi liền hoặc có ba thùy với một mô sần ở phần chân dày, có gai hoặc lông tơ. Các thùy bên nhỏ hoặc rộng, nằm ngang hoặc đối xứng, thùy giữa phẳng và có khía. Trụ hoa ngắn, cứng với những cái cánh hoặc vật giống dái tai nằm ở phía khác. Khối phấn 2.

Có một số loài thuộc Oncidium đã được lai tạo rộng rãi với các giống khác, một số đã được mọi người công nhận, song một số khác thì ít được công nhận.

CÁCH TRỒNG

Hầu hết các loài thuộc giống này phát triển tốt ở môi trường nhiệt độ trung bình, trồng trong chậu với chất trồng tiêu chuẩn dành cho lan biểu sinh, thoát nước tốt, trong quá trình phát triển cần tưới nhiều nước, và cần có một mùa đông khô hơn. Đối với những loài xuất xứ từ vùng cao nguyên, thích hợp với khí hậu mát.

Nhiều loài có vòi hoa dài thì cần có cây để cột giữ chúng.

Oncidium altissimum

Giả hành mọc thành cụm, dẹt, dài 10 cm, có 1-2 lá trên đỉnh. Lá dài 80 cm, rộng 8 cm. Vòi hoa dài tới 3 m, có phân nhánh về phía đầu mút vòi hoa. Có nhiều hoa, hoa to 1,5-3,5 cm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng đến xanh vàng, với những đốm, những sọc màu hạt dẻ. Môi màu vàng với một vệt màu nâu hạt dẻ ở phần chân, thùy giữa có hình quả thận.

Lan biểu sinh, trong rừng trên cao nguyên, trên độ cao 30-850 m, ở Lesser Antilles.

Loài lan lùn, với giả hành dài 6,5 cm. Có 1 lá, lá dài 10 cm, rộng 2,5 cm. Vòi hoa phân nhánh dài 50 cm, có ít hoa, hoa to 2,5 cm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng với những đốm và vạch màu nâu. Môi màu vàng sáng với các chấm đỏ trên mô sần, ba thùy sâu, các thùy bên cùng chiều rộng với thùy giữa. Mô sần tròn, có tua và có 5 răng.

Lan biểu sinh, ở miền trung du, ở Bolivia, Brasil.

Loài tương tự: Oncidium fimbriatum Lindley, ở Argentina, Brasil và Paraguay, có vòi hoa dài hơn một chút và hoa cũng nhỏ hơn một chút với các lá đài liên kết với nhau ở phần chân.

Oncidium baueri

Giả hành dài 15 cm, to 4 cm, dẹt, có 2 lá, giả hành mọc trên thân rễ dài, bò lan. Lá dài 20-50 cm. Vòi hoa có nhiều nhánh, dài tới 3 m, có nhiều hoa, hoa to 3 cm, cánh hoa giống sáp, hoa lâu tàn, màu vàng sáng đến vàng xỉn, trên lá đài và cánh hoa đều có những sọc màu nâu. Môi có đốm nâu đỏ ở tâm.

Lan biểu sinh, thạch lan hoặc địa lan trong khu rừng rậm, có rụng lá, trên độ cao 0-1.200 m, ở Trung và Nam Mỹ.

Cây nhỏ, với giả hành chỉ cao 4 cm, to 2 cm, có 2 lá, hiếm khi có 1 lá. Lá dài 12 cm, rộng 1,5 cm. Vòi hoa uốn cong, thường không phân nhánh, dài 35 cm, có 20 hoa mọc thưa, hoa to 2-3 cm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng có những đốm nâu đỏ. Môi màu vàng kim với những đốm nâu đỏ trên mô sần, thùy giữa rộng, có móng rồi chuyển hình quả thận, mép xẻ sâu.

Trụ hoa như cái cánh, có những răng cưa nhỏ.

Lan biểu sinh, trong rừng, trên độ cao 1.000-3.000 m, ở Argentina, Bolivia, Brasil, Paraguay

Loài tương tự: Oncidium fl exuosum Loddiges, ở Argentina, Brasil và Paraguay, trong rừng có đầm lầy ở cao độ 500-800 m. Chúng có hoa nhỏ hơn chút ít và các cánh hoa ngắn hơn với nhiều sọc màu nâu đỏ.

Oncidium blanchetii

Giả hành mọc thành cụm, dài 8 cm, có 2 lá.

Lá đứng thẳng, cứng, dài 50 cm, rộng 3 cm. Vòi hoa cao 30-200 cm, có phân nhánh, nhiều hoa, hoa to 2,5 cm. Các lá đài và cánh hoa có những sọc màu nâu đỏ. Môi màu vàng có ba thùy, với một mô sần có nhiều mụn. Thùy giữa hình quả thận, lớn hơn các thùy bên rất nhiều, riềm xẻ.

Địa lan, trên thảm cỏ , trong các bụi cây và trong các khu rừng tái sinh, trên núi, trên độ cao 1.200-2.000 m, ở Brasil.

Giả hành dài 3 cm, hình côn đến gần như tròn, có 1-2 lá. Lá dài 20 cm, rộng 1,5 cm. Vòi hoa dài 10-25 cm, phân nhánh, có nhiều hoa mọc sít nhau ở phần trên của vòi hoa. Hoa có hương thơm, to 1,5 cm, màu vàng sáng, mô sần màu trắng với 3-5 răng dày.

Lan biểu sinh, trong rừng nhiều mưa và mây phủ, trên độ cao 600-2.000 m, ở Trung và Nam Mỹ.

Oncidium cornigerum

Giả hành dài 15 cm, to 3 cm. lá thưa thớt, dài 23 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa dài 75 cm, có nhiều hoa, hoa mọc hướng lên đỉnh, hoa to 2 cm, có hình hơi giống cái cốc (ly). Các lá đài và cánh hoa màu vàng sáng với những đốm và sọc màu nâu đỏ. Môi màu vàng sáng, hình cái chốt chặn, thùy giữa gần như hình tròn, riềm nhăn nheo.

Giả hành màu nâu sẫm, có khe rãnh dọc thân. Có 2 lá, lá dài 30 cm, rộng 5 cm. Vòi hoa cao 1 m, có nhiều hoa, hoa to 8-10 cm, màu nâu đỏ, đôi khi có những đốm màu vàng. Môi có màu vàng ở phần chân, cùng với một mô sần màu vàng. Các chi tiết của hoa đều quăn và mép gợn sóng. Loài này ưa được trồng trong điều kiện mát mẻ.

Lan biểu sinh, trong rừng ở miền trung du và cao nguyên, ưa nhiều sáng, trên độ cao 1.400 m, ở Brasil.

Cùng loài: Oncidium pulvinatum Lindley

Giả hành dài 5 cm, dẹt. Có 1 lá, dài 30 cm, rộng 8 cm. Vòi hoa có nhiều nhánh, dài tới 2 m, có nhiều hoa, cuống hoa màu đỏ tía, hoa to 2,5 cm, màu vàng với những mảng màu nâu. Các cánh hoa rộng hơn lá đài. Môi có ba thùy, các thùy bên rộng, phẳng và mép có răng cưa nhỏ, thùy giữa nhỏ hơn, chuyển sang hình thuôn, một mô sần giống cái nệm, có 4 thùy. Các cánh của trụ hoa tròn.

Lan biểu sinh, trong rừng nhiều sương mù, trên độ cao chừng 1.500 m, ở Argentina, Brasil, Paraguay.

Oncidium ensatum

Cùng loài: Oncidium floridanum Ames 

Giả hành dài 10 cm, to 5 cm. Có 2 lá, lá dài 100 cm, rộng 3 cm, màu xanh ngả vàng. Vòi hoa cao 2 m, có nhiều hoa, hoa to 3 cm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng, đôi khi có những đốm màu nâu ngả xanh. Các thùy bên của môi nhỏ, thùy giữa có móng, tiếp đến có hình quả thận, riềm xẻ khe, mô sần màu trắng.

Địa lan, trong các rừng cây ẩm ướt, vùng đất thấp và trên các đồng cỏ lộ thiên, trên độ cao 550-600 m, ở Florida của Hoa Kỳ, Mexico, Cuba, Trung và Nam Mỹ.

Oncidium excavatum

Cây có kích thước lớn, giả hành dài 18 cm, mọc thành cụm, có 1-2 lá. Lá dài 50 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa cao 1,5 m, phân nhánh, đứng thẳng hoặc uốn cong, có nhiều hoa mọc thưa, hoa to 3,5 cm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng sáng, có những vệt và sọc màu nâu đỏ kẻ dọc xuống phần chân. Các cánh hoa lớn nhiều so với lá đài.

Các thùy bên nhỏ, màu vàng, sọc nâu, thùy giữa lớn, màu vàng, phần chân màu đổ, riềm xẻ sâu, một mô sần có 4 dãy mụn chạy dọc.

Địa lan bên bìa rừng, trên độ cao 2.400-2.700 m, ở Bolivia, Colombia, Ecuador, Peru.

Giả hành hình thuôn, dài 8 cm, to 4 cm. Có 1-2 lá, dài 25 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa dài 15-70 cm, thường không phân nhánh, có nhiều hoa, hoa to 5-6 cm, màu nâu đỏ, viền vàng không đều nhau. Các cánh hoa rộng hơn các lá đài nhiều. Thùy bên của môi nhỏ, thùy giữa có móng, hình cái quạt, Môi có ba thùy. Mô sần rất nhiều mụn, có 5 thùy.

Lan biểu sinh và địa lan, trong rừng, trên độ cao 800-1.600 m, ở Brasil.

Cùng loài: Miltonia warszewiczii Reichenbach f.

Giả hành dẹt, dài 12 cm, mọc thành cụm, có 1 lá ở đỉnh, lá dài 33 cm, rộng 3,5 cm. Vòi hoa dài 50 cm, thường phân nhánh, có nhiều hoa, hoa to 5 cm. tất cả thành phần của hoa đều có riềm gợn sóng. Các lá đài và cánh hoa màu nâu đỏ, phần đầu cánh hoa và lá đài trắng hoặc vàng. Môi màu đỏ tía ngả hồng với riềm màu trắng, thùy giữa gần như tròn, xẻ sâu. Các cánh của trụ hoa tròn, màu đỏ tía.

Lan biểu sinh, gần như sinh trưởng ở vùng hạ du, ở Brasil, Colombia, Ecuador, Peru.

Giả hành dẹt, dài 11 cm, to 6 cm, có 2 lá. Lá dài 40 cm, rộng 3 cm. Vòi hoa phân nhánh, dài 1,5 m, có nhiều hoa, hoa to 4-5 cm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng đến màu xanh vàng, với những đốm, sọc màu hạt dẻ. Môi giống mũi tên, thùy bên phẳng, màu trắng, thùy giữa màu đỏ tía. Mô sần chia 4 thùy màu trắng có sọc đỏ tía.

Lan biểu sinh hoặc thạch lan, trong rừng thông, trên cao độ 2.000 m, ở Mexico.

Giả hành dẹt, kích thước 6 x 4 cm, có 1-2 lá. Lá dài 35 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa dài 80 cm, có nhiều hoa, hoa to 7,5 cm, có hương thơm, lâu tàn. Các lá đài và cánh hoa màu vàng xỉn hoặc xanh xỉn, với những sọc màu nâu đỏ. Môi màu trắng hoặc màu hồng xỉn, phần chân môi màu đỏ tía, các thùy bên nhỏ, hơi cuộn lại, nhọn đầu.

Thùy giữa có móng, hình trái tim.

Lan biểu sinh, trong rừng, tên độ cao chùng 1.500 m, ở Colombia, Ecuador, Peru, Venezuela.

Oncidium klotzschianum

Cùng loài: Oncidium obryzatum Reichenbach f. & Warszewicz.

Giả hành dài 6 cm, to 3 cm, có khía và dẹt, có 1-2 lá ở đỉnh. Lá dài 30 cm, rộng 3,5 cm. Vòi hoa dài 45-100 cm, có phân nhánh, nhiều hoa, hoa to 4 cm, màu vàng với những bớt màu nâu đỏ ở phần chân của lá đài và cánh hoa cũng như ở môi. Thùy bên của môi phẳng, thùy giữa hình quả thận, riềm xẻ khe. Mô sần có 3 thùy ở đỉnh.

Lan biểu sinh, trong rừng nhiều mưa và mây phủ, trên độ cao 700-1.600m, Trung và Nam Mỹ.

Giả hành dẹt, 13 cm, to 6 cm, có gân, 1-2 lá, lá dài 60 cm, rộng 4,5 cm. Vòi hoa dài 3 m, phân nhánh, có nhiều hoa, hoa to 3,5 cm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng đến màu xanh xỉn, có những đốm rất rõ, màu nâu đỏ tía. Môi trắng pha màu hồng hoặc màu vàng.

Lan biểu sinh trong rừng sồi hoặc rừng bách, trên độ cao 1.500-2.200 m, ở Mexico, Guyana, Honduras.

Giả hành 3 x 1 cm. Có 1-2 lá, giả hành mọc lên từ thân rễ bò lan. Lá dài 10 cm, rộng 2 cm.

Vòi hoa không phân nhánh, dài 15 cm, có 2-5 hoa, hoa 2-3,5 cm, màu nâu vàng hoặc màu nâu ngả đỏ lợt với những sọc và đầu cánh màu vàng. Môi màu vàng sáng với những đốm đỏ trên và chung quanh mô sần.

Các thùy bên của môi phẳng, tròn, thùy giữa có móng rồi chuyển sang hình quả thận.

Lan biểu sinh, trên cao ở rừng nguyên sinh miền hạ du ở Argentina, Brasil, Uruguay, Paraguay.

Giả hành 10 x 4 cm, rất dẹt. Có 2 lá, lá dài 25 cm, rộng 5 cm. Vòi hoa thường phân nhánh, cao 1 m, có nhiều hoa, hoa to 5 cm. Các cánh hoa và lá đài có màu ngả nâu đến màu xanh vàng, với những đốm nổi bật màu nâu đỏ tía đậm. Các thùy bên của môi nhỏ, thùy giữa trắng pha vàng, riềm gợn sóng. Mô sần có 4 đường gân nổi, đường kẻ màu đỏ tía.

Lan biểu sinh, trong rừng mưa, trên độ cao 800-2.000 m, ở Mexico, Trung Mỹ.

Oncidium marshallianum

Giả hành hơi dẹt, 15 x 4 cm. Có 2 lá, lá dài 30 cm, rộng 4 cm. Vòi hoa phân nhánh, có nhiều hoa, hoa có kích thước cũng như màu sắc khác nhau, hoa to 5,5 cm. Các lá đài màu vàng nhạt, với những đốm và sọc màu nâu đỏ đi về phía chân. Môi màu vàng sáng, riềm xẻ sâu. Móng và mô sần có những đốm màu đỏ cam.

Lan biểu sinh, trong rừng, đôi khi là địa lan trong những bụi cây thấp, trên độ cao 1.000- 1.500 m, ở miền đông nam Brasil.

Giả hành 6 x 3 cm, có 2 lá ở đỉnh. Lá dài 25 cm, rộng 3 cm. Vòi hoa uốn cong dài 50 cm, phân nhánh, có nhiều hoa, hoa to 2,5 cm, có hương thơm. Các lá đài và cánh hoa màu trắng, hồng hoặc đỏ giống hoa tử đinh hương. Môi có màu đậm hơn, các thùy bên nhỏ, thùy giữa có móng, hình gần giống cái quạt, riềm xẻ khe. Mô sần màu vàng hoặc cam. Loài lan xinh đẹp này trồng nơi mát tốt hơn.

Lan biểu sinh, trong rừng mây phủ, trên độ cao 1.000-1.500 m, đôi khi thấy chúng trong các khu rừng nhiều mưa ở miền hạ du, ở Mexico, Trung và Nam Mỹ.

Oncidium raniferum

Giả hành 6,5 x 2 cm. Có 2 lá trên đỉnh. Lá dài 17 cm, rộng 1,5 cm. Vòi hoa thẳng đứng, cao 35 cm, với nhiều nhánh nằm ngang, có nhiều hoa, hoa to 1,5 cm. Các lá đài và cánh hoa nhỏ, màu vàng có những đốm nâu. Môi màu vàng với những đốm và vạch màu nâu, các thùy bên tròn, có răng cưa, thùy giữa hình cái quạt, riềm xẻ sâu. Mô sần màu nâu đỏ. Các cánh của trụ hoa có sọc màu nâu.

Lan biểu sinh, ở Brasil.

Giả hành 15 x 3 cm, hình cái chốt chặn, có 2-3 lá trên đỉnh. Lá dài 25 cm, rộng 5 cm. Vòi hoa uốn cong, cao 1,8 m, phân nhánh, có nhiều hoa, hoa to 5 cm, hoa lâu tàn. Các lá đài và cánh hoa màu nâu hạt dẻ bóng với riềm màu vàng.

Môi màu vàng sáng, ở phần chân có những đốm màu nâu đỏ, các thùy bên nhỏ, thùy giữa hình thuôn nằm ngang, riềm môi xẻ. Mô sần màu trắng hoặc vàng có những đốm nâu đỏ. Loài này yêu cầu nhiệt độ mát và hình như trồng ghép tốt hơn.

Lan biểu sinh, ở Brasil.

Oncidium sphacelatum

Giả hành dài 15 cm, to 5 cm, hình trứng dẹt, với cạnh sắc. Có 2-3 lá, lá dài 25-100 cm. Vòi hoa phân nhánh, cao 1,5 m, có nhiều hoa, hoa to 3 cm, màu vàng sáng. Các lá đài và cánh hoa có những đốm ở phần thấp, màu nâu hoặc màu hạt dẻ. Môi có những vệt màu nâu đỏ ở phía trước mô sần, thùy giữa hình thuôn xoay ngang, riềm môi có xẻ và gợn sóng.

Lan biểu sinh, trong các khu rừng vùng đất thấp, nơi có nhiều mưa, hiếm khi là địa lan ởvùng đất mùn, trên độ cao 50-200 m, ở Mexico, Trung Mỹ và Venezuela.

Oncidium tigratum

Giả hành dẹt 10 x 4 cm, có 2 lá ở đỉnh. Lá dài 20 cm, rộng 3,5 cm. Vòi hoa dài 40 cm, có những nhánh ngắn, có nhiều hoa, hoa to chừng 2,5 cm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng có những đốm nâu hoặc đỏ. Môi màu vàng sáng, ở phần chân có những sọc màu nâu, các thùy bên trông giống cái tai, thùy giữa trông giống quả thận. Mô sần màu trắng, có nhiều mụn. Trụ hoa màu vàng pha đỏ tía, cánh của trụ hoa màu vàng với những đốm nâu đỏ.

Sinh trưởng ở Colombia, Ecuador, Peru.

Oncidium tigrinum

Giả hành dẹt, dài 10 cm, to 6 cm, có 2 lá ở đỉnh. Lá dài 45 cm, rộng 2,5 cm. Vòi hoa phân nhánh, đứng thẳng, dài 60-90 cm, có nhiều hoa, hoa to 7,5 cm, có hương thơm. Các lá đài và cánh hoa màu vàng sáng, có những sọc và đốm màu nâu đậm nổi bật. Môi màu vàng, các thùy bên trông giống cái tai, thùy giữa có một cái móng nhỏ sau đó là hình thuôn rộng, riềm xẻ khe. Mô sần có ba đường gân nổi, cuối cùng là những cái răng tù. Loài này yêu cầu môi trường có khí hậu mát.

Lan biểu sinh, trong rừng sồi, trên độ cao 2.000-2.500 m, ở Mexico.

Loài tương tự: Oncidium unguiculatum.

Lindley, ở Mexico, tại thùy giữa của môi có một cái móng rất dài và các lá đài cũng như các cánh hoa với những đốm màu đậm hơn.

Oncidium warszewiczii

Giả hành hình trứng dẹt, dài 9 cm, to 5 cm, có 2 lá. Lá dài 30 cm, rộng 3 cm. Vòi hoa dài 25-50 cm, không phân nhánh, uốn cong, có 6-12 hoa, hoa to 3 cm, màu vàng kim với một ít đốm màu nâu đỏ chung quanh mô sần và ở phần chân của cánh hoa. Các thùy bên của môi nhỏ, thùy giữa hình quả thận đến gần như hình tròn.

Mô sần có 5 răng.

Lan biểu sinh, trong rừng nhiều mưa, trên độ cao 1.200-2.900 m, ở Costa Rica, Panama và Colombiz.

Nguồn tài liệu : SÁCH HOA LAN ( của Bác Phạm Tiến Khoa )

Bạn đang xem bài viết Hoa Lan Epidendrum – Dân Chơi Lan trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!