Cập nhật thông tin chi tiết về Đặc Tính Cách Trồng Và Chăm Sóc mới nhất trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Lan Ngọc Điểm là loại Lan phân bố khá phổ biến ở nước ta. Lan Ngọc Điểm khá dễ trồng. Thích nghi với mọi điều kiện khí hậu tại Việt Nam. Ngọc Điểm cho hoa vào dịp tết, hoa đẹp có mùi hương thoang thoảng đặc trưng của Lan rừng. Nên hầu như anh chị em chơi lan, ai cũng có cho mình từ một đến hai cây trong vườn. Với tình yêu đặc biệt dành cho lan Ngọc Điểm. Chuyên trang xin chia sẻ một số quan điểm chủ quan về loài lan này như sau.
1. Tên gọi
Lan Ngọc điểm có tết khoa học là khoa học là Rhynchostylis gigantean. Tại Việt Nam hiện nay có 3 tên gọi chính cho loài lan này. Miền Nam gọi là ngọc điểm, Miền Bắc gọi là Đai Châu (tên gọi tượng hình của chuỗi hoa sắp nở lung linh như chuỗi ngọc). Miền Trung gọi là Nghinh Xuân (đón tết).Thỉnh thoảng tôi vẫn nghe một số người gọi là “tai trâu”. Đây là cách gọi hoàn toàn sai và nghe rất chối tai khi nó không phản ánh điều gì về thân, lá, hoa, hương của chủ thể.
2. Hương hoa của Lan Ngọc Điểm
Ngọc điểm nở hoa khi được trưng bày trong gian phòng khách thì hầu như phát hương tỏa khắp. hương thơm dịu nhẹ nhưng đằm thắm, ngất ngây lòng người. Có lẽ, ngọc điểm cùng với họ lan giáng hương và lan trầm là những loài lan sở hữu mùi hương quyến rũ bậc nhất trong họ nhà lan.
Lan Ngọc điểm có thể nói là Lan của tết cổ truyền dân tộc. Một cây ngọc điểm trưởng thành bình thường sẽ cho hoa vào dịp Tết ta (Tết nguyên đán). Trừ những năm nhuận cây cho hoa sớm trước Tết.
Cây ngọc điểm mất khoảng 2-3 tháng từ lúc nhú vòi, ra nụ cho đến khi hoa nở. Điều này phụ thuộc nhiều vào thời tiết nóng, lạnh và chế độ tưới nước, chiếu sáng của người chơi. Độ bền của hoa nếu chăm sóc tốt thường là 20-30 ngày.
Ngọc điểm rừng tại Việt Nam ghi nhận 2 màu chính:– Cánh trắng điểm nhiều đốm tím trên cánh hoa, với môi giữa màu tím.– Cánh trắng điểm ít đốm tím hoặc không có đốm tím, với môi giữa màu tím.Cá biệt có một số cây ngọc điểm rừng cho hoa trắng tuyền (pure white). Loại này rất hiếm và đương nhiên có giá trị cao nhờ độ thuần khiết, tinh khôi của nó.
Lan Ngọc điểm công nghiệp hay ngọc điểm Thái ghi nhận thêm một số màu hoa lai tạo: tím, đỏ, trắng, hồng… Nhưng độ cứng của màu hoa và hương thơm có phần kém đi nên không thể so sánh được độ chất của ngọc điểm rừng. Bạn có thể tham khảo những mặt hoa Ngọc Điểm đột biến sau đây.
Nếu để ý, ngọc điểm vẫn có loại lá lướt và lá xếp, loại lá ngắn và loại lá dài và thậm chí là lá to bản và lá bản hẹp. Cũng có thể là do điều kiện chăm sóc khác nhau của từng cây, từng người – môi trường xác định kiểu hình. Và để nói về kiểu hình nào đẹp hơn hay kém hơn thì hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chơi cây, chơi hoa của gia chủ.
II. Cách chăm sóc Lan Ngọc Điểm
1. Nhiệt độ và độ ẩm
Ngọc điểm là loại Lan chịu nhiệt tốt, nhưng nó thích ẩm. Nhiệt độ và độ ẩm lý tưởng cho cây vào khoảng 40 – 70% và 26°C– 30°C. Độ ẩm càng cao, rễ lan mọc càng nhanh và phát triển rất tốt. Tuy lan Ngọc Điểm chịu nhiệt tốt nhưng không nên để lan chịu ánh nắng trực tiếp vì dễ gây bỏng lá. Trong môi trường bóng râm quá lớn, thiếu ánh sáng cần thiết lan Ngọc Điểm cũng khó có thể phát triển tốt. Thiếu ánh sáng cây sẽ tăng trưởng chậm và thiếu sức sống. Lan Ngọc Điểm ưa nóng nhưng nó cần lượng ánh sáng chiếu trong ngày vừa đủ để ra hoa, Vì thế cây chỉ nở hoa vào dịp tết âm lịch, tức vào thời điểm trong năm có ngày ngắn đêm dài
Ngọc điểm là loại lan đơn thân nên ưa giá thể thoáng. Chịu ẩm nhưng không chịu được úng. Luôn nhớ Ngọc Điểm thường mọc trên cây cao rất thoáng gió. Không ưa không khí tù hãm vì thế rễ cây không được ẩm ướt suốt ngày. Lan cũng không ưa bị quấy nhiễu hay thay chậu, cho nên cách trồng tốt nhất là ghép cây vào gỗ, lũa hoặc trồng trong chậu để phơi rễ ra ngoài.
Kinh nghiệm cho thấy cây lan ngọc điểm được ghép trên gỗ sẽ phát triển nhanh hơn. Bộ rễ phát triển mạnh hơn do thoáng khí và ít bị rụng lá chân. Gỗ dùng ghép ngọc điểm có thể là gỗ vú sữa, nhãn… hoặc bất kỳ loại gỗ nào không có chất mặn, chất chát và thời gian sử dụng lâu bền để tránh phải thay giá thể nhiều lần gây sốc cây. Nếu trồng chậu thì nên trồng chậu đất nung nhiều lỗ với vài cục than to để tạo độ thoáng cho rễ. (Kinh nghiệm cho thấy những vườn có hồ nước bên dưới treo ngọc điểm bên trên cây phát triển rất mạnh do hồ nước bốc hơi khiến ẩm độ không khí cao kích thích rễ phát triển nhanh)
3. Tưới nước
Đối với lan Ngọc Điểm. Tùy từng giai đoạn phát triển của cây mà ta cung cấp lượng phân bón cũng như lượng nước tưới thích hợp. Lan ngọc điểm là loại lan đơn thân nên giả hành không dự trữ nước nhiều. Do đó cần cung cấp đủ độ ẩm để cây phát triển. Tuỳ theo loại giá thể trồng mà chọn cách tưới cho phù hợp. Vào mùa nắng có thể tưới ngày 2-3 lần tuỳ theo giá thể trồng và độ ẩm của vườn, ngày mưa khỏi tưới, chỉ tưới lại khi thấy cây khô ráo.
Nên bổ sung các loại phân có chứa trung vi lượng, N-P-K và các chất cần thiết để để cây cho hoa đúng thời điểm. Bạn cần nhớ, đừng bao giờ bón phân cho lan lúc giá thể và rễ đang khô nóng. Nên bón phân vào buổi sáng hoặc chiều mát. Trước khi tưới, phun phân hãy phun sương ẩm toàn bộ cây và gốc. Bón theo đúng chỉ dẫn và đúng chu kỳ phát triển của cây.
Sau mùa xuân khi lan ngọc điểm đã tàn hoa và bước vào mùa nghỉ ta chỉ tưới nước 1lần/ngày. Vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 khi cây bước vào thời kì phát triển ta phun phân 30-10-10 nhằm kích thích cây ra lá và rễ. Phun cách nhau 1 tuần 1 lần với liều lượng thấp hơn so với chỉ dẫn trên bao bì vì lan rừng không chịu được nồng độ phân cao. Sau 2 lần tưới 30-10-10 thì tưới 1 lần 20-20-20 nhằm để cây phát triển cân đối lại tránh hiện tượng cây mềm yếu do thừa đạm. Khi cây bắt đầu nhú mầm hoa thì chuyển sang dùng phân bón lá 6-30-30 nhằm tăng khả năng đậu hoa và vòi hoa dài hơn.
Định kì phun các loại thuốc phòng trị bệnh như Ridomil Gold , Booc Đo , Tilt Super. Phun 1 tháng 1 lần vào mùa khô và 2 tuần 1 lần vào mùa mưa…. Xen kẽ cho cây đỡ bị lờn thuốc. Có thể pha chung với phân nhưng nên dùng bình xịt riêng để tiết kiệm và tiện theo dõi. Mẹo nhỏ để phòng tránh ruồi vàng và các loại côn trùng là dùng 2 viên long não pha chung với 16 lít nước 1 tuần xịt 1 lần rất hiệu quả.
Vườn lan ngọc điểm vào mùa mưa phải dọn sạch cỏ rác trong vườn. Khơi thông không cho đọng nước. Gom sạch lá khô vàng. Rải Vôi đã qua xử lí quanh vườn và những nơi thường xuất hiện bệnh để khử và làm sạch ổ bệnh… không để các loài côn trùnggây ảnh hưởng cũng như cắn phá.
Lan Ngọc Điểm – Đặc Tính Cách Trồng Và Chăm Sóc
Lan Ngọc Điểm là loại Lan phân bố khá phổ biến ở nước ta. Lan Ngọc Điểm khá dễ trồng. Thích nghi với mọi điều kiện khí hậu tại Việt Nam. Ngọc Điểm cho hoa vào dịp tết, hoa đẹp có mùi hương thoang thoảng đặc trưng của Lan rừng. Nên hầu như anh chị em chơi lan, ai cũng có cho mình từ một đến hai cây trong vườn. Với tình yêu đặc biệt dành cho lan Ngọc Điểm. Chuyên trang xin chia sẻ một số quan điểm chủ quan về loài lan này như sau.
Ảnh: Nghinh Xuân, Ngọc Điểm -LÊ TIẾN MƯỜII. Giới thiệu về lan Ngọc điểm
1. Tên gọi
Lan Ngọc điểm có tết khoa học là khoa học là Rhynchostylis gigantean. Tại Việt Nam hiện nay có 3 tên gọi chính cho loài lan này. Miền Nam gọi là ngọc điểm, Miền Bắc gọi là Đai Châu (tên gọi tượng hình của chuỗi hoa sắp nở lung linh như chuỗi ngọc). Miền Trung gọi là Nghinh Xuân (đón tết). Thỉnh thoảng tôi vẫn nghe một số người gọi là “tai trâu”. Đây là cách gọi hoàn toàn sai và nghe rất chối tai khi nó không phản ánh điều gì về thân, lá, hoa, hương của chủ thể.
2. Hương hoa của Lan Ngọc Điểm
Ngọc điểm nở hoa khi được trưng bày trong gian phòng khách thì hầu như phát hương tỏa khắp. hương thơm dịu nhẹ nhưng đằm thắm, ngất ngây lòng người. Có lẽ, ngọc điểm cùng với họ lan giáng hương và lan trầm là những loài lan sở hữu mùi hương quyến rũ bậc nhất trong họ nhà lan.
Lan Ngọc điểm có thể nói là Lan của tết cổ truyền dân tộc. Một cây ngọc điểm trưởng thành bình thường sẽ cho hoa vào dịp Tết ta (Tết nguyên đán). Trừ những năm nhuận cây cho hoa sớm trước Tết.
Cây ngọc điểm mất khoảng 2-3 tháng từ lúc nhú vòi, ra nụ cho đến khi hoa nở. Điều này phụ thuộc nhiều vào thời tiết nóng, lạnh và chế độ tưới nước, chiếu sáng của người chơi. Độ bền của hoa nếu chăm sóc tốt thường là 20-30 ngày.
ảnh: Các mặt hoa lan Ngọc Điểm sưu tầm3. Màu sắc của Lan Ngọc Điểm
Ngọc điểm rừng tại Việt Nam ghi nhận 2 màu chính: – Cánh trắng điểm nhiều đốm tím trên cánh hoa, với môi giữa màu tím. – Cánh trắng điểm ít đốm tím hoặc không có đốm tím, với môi giữa màu tím. Cá biệt có một số cây ngọc điểm rừng cho hoa trắng tuyền (pure white). Loại này rất hiếm và đương nhiên có giá trị cao nhờ độ thuần khiết, tinh khôi của nó.
Lan Ngọc điểm công nghiệp hay ngọc điểm Thái ghi nhận thêm một số màu hoa lai tạo: tím, đỏ, trắng, hồng… Nhưng độ cứng của màu hoa và hương thơm có phần kém đi nên không thể so sánh được độ chất của ngọc điểm rừng. Bạn có thể tham khảo những mặt hoa Ngọc Điểm đột biến sau đây.
ảnh: 1 số mặt hoa Ngọc Điểm đột biến – Sưu tầm4. Kiểu hình của lan ngọc điểm
Nếu để ý, ngọc điểm vẫn có loại lá lướt và lá xếp, loại lá ngắn và loại lá dài và thậm chí là lá to bản và lá bản hẹp. Cũng có thể là do điều kiện chăm sóc khác nhau của từng cây, từng người – môi trường xác định kiểu hình. Và để nói về kiểu hình nào đẹp hơn hay kém hơn thì hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chơi cây, chơi hoa của gia chủ.
II. Cách chăm sóc Lan Ngọc Điểm
1. Nhiệt độ và độ ẩm
Ngọc điểm là loại Lan chịu nhiệt tốt, nhưng nó thích ẩm. Nhiệt độ và độ ẩm lý tưởng cho cây vào khoảng 40 – 70% và 26°C– 30°C. Độ ẩm càng cao, rễ lan mọc càng nhanh và phát triển rất tốt. Tuy lan Ngọc Điểm chịu nhiệt tốt nhưng không nên để lan chịu ánh nắng trực tiếp vì dễ gây bỏng lá. Trong môi trường bóng râm quá lớn, thiếu ánh sáng cần thiết lan Ngọc Điểm cũng khó có thể phát triển tốt. Thiếu ánh sáng cây sẽ tăng trưởng chậm và thiếu sức sống. Lan Ngọc Điểm ưa nóng nhưng nó cần lượng ánh sáng chiếu trong ngày vừa đủ để ra hoa, Vì thế cây chỉ nở hoa vào dịp tết âm lịch, tức vào thời điểm trong năm có ngày ngắn đêm dài
Ảnh: Lan Ngọc Điểm – Lê Tiến Mười2. Giá thể trồng lan ngọc điểm
Ngọc điểm là loại lan đơn thân nên ưa giá thể thoáng. Chịu ẩm nhưng không chịu được úng. Luôn nhớ Ngọc Điểm thường mọc trên cây cao rất thoáng gió. Không ưa không khí tù hãm vì thế rễ cây không được ẩm ướt suốt ngày. Lan cũng không ưa bị quấy nhiễu hay thay chậu, cho nên cách trồng tốt nhất là ghép cây vào gỗ, lũa hoặc trồng trong chậu để phơi rễ ra ngoài.
Kinh nghiệm cho thấy cây lan ngọc điểm được ghép trên gỗ sẽ phát triển nhanh hơn. Bộ rễ phát triển mạnh hơn do thoáng khí và ít bị rụng lá chân. Gỗ dùng ghép ngọc điểm có thể là gỗ vú sữa, nhãn… hoặc bất kỳ loại gỗ nào không có chất mặn, chất chát và thời gian sử dụng lâu bền để tránh phải thay giá thể nhiều lần gây sốc cây. Nếu trồng chậu thì nên trồng chậu đất nung nhiều lỗ với vài cục than to để tạo độ thoáng cho rễ. (Kinh nghiệm cho thấy những vườn có hồ nước bên dưới treo ngọc điểm bên trên cây phát triển rất mạnh do hồ nước bốc hơi khiến ẩm độ không khí cao kích thích rễ phát triển nhanh)
3. Tưới nước
Đối với lan Ngọc Điểm. Tùy từng giai đoạn phát triển của cây mà ta cung cấp lượng phân bón cũng như lượng nước tưới thích hợp. Lan ngọc điểm là loại lan đơn thân nên giả hành không dự trữ nước nhiều. Do đó cần cung cấp đủ độ ẩm để cây phát triển. Tuỳ theo loại giá thể trồng mà chọn cách tưới cho phù hợp. Vào mùa nắng có thể tưới ngày 2-3 lần tuỳ theo giá thể trồng và độ ẩm của vườn, ngày mưa khỏi tưới, chỉ tưới lại khi thấy cây khô ráo.
Hình minh họa: Lan Ngọc Điểm – Lê Tiến Mười4. Bón phân cho lan ngọc điểm
Nên bổ sung các loại phân có chứa trung vi lượng, N-P-K và các chất cần thiết để để cây cho hoa đúng thời điểm. Bạn cần nhớ, đừng bao giờ bón phân cho lan lúc giá thể và rễ đang khô nóng. Nên bón phân vào buổi sáng hoặc chiều mát. Trước khi tưới, phun phân hãy phun sương ẩm toàn bộ cây và gốc. Bón theo đúng chỉ dẫn và đúng chu kỳ phát triển của cây.
Sau mùa xuân khi lan ngọc điểm đã tàn hoa và bước vào mùa nghỉ ta chỉ tưới nước 1lần/ngày. Vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 khi cây bước vào thời kì phát triển ta phun phân 30-10-10 nhằm kích thích cây ra lá và rễ. Phun cách nhau 1 tuần 1 lần với liều lượng thấp hơn so với chỉ dẫn trên bao bì vì lan rừng không chịu được nồng độ phân cao. Sau 2 lần tưới 30-10-10 thì tưới 1 lần 20-20-20 nhằm để cây phát triển cân đối lại tránh hiện tượng cây mềm yếu do thừa đạm. Khi cây bắt đầu nhú mầm hoa thì chuyển sang dùng phân bón lá 6-30-30 nhằm tăng khả năng đậu hoa và vòi hoa dài hơn.
Thông thường từ khi nhú vòi hoa đến khi nở là khoảng 3 tháng. Cây ra hoa sớm hay muộn phụ thuộc niều vào khí hậu gần tết. Vì thế nếu muốn hoa nở đúng tết bạn phải canh thời gian để kìm hãm hoặc kích thích cây. Cách làm Lan Ngọc Điểm ra hoa đúng tết bạn tham khảo tại đây
ảnh: Sưu tầmIII. Phòng trừ bệnh và dịch hại cho lan ngọc điểm
Định kì phun các loại thuốc phòng trị bệnh như Ridomil Gold , Booc Đo , Tilt Super. Phun 1 tháng 1 lần vào mùa khô và 2 tuần 1 lần vào mùa mưa…. Xen kẽ cho cây đỡ bị lờn thuốc. Có thể pha chung với phân nhưng nên dùng bình xịt riêng để tiết kiệm và tiện theo dõi. Mẹo nhỏ để phòng tránh ruồi vàng và các loại côn trùng là dùng 2 viên long não pha chung với 16 lít nước 1 tuần xịt 1 lần rất hiệu quả.
Vườn lan ngọc điểm vào mùa mưa phải dọn sạch cỏ rác trong vườn. Khơi thông không cho đọng nước. Gom sạch lá khô vàng. Rải Vôi đã qua xử lí quanh vườn và những nơi thường xuất hiện bệnh để khử và làm sạch ổ bệnh… không để các loài côn trùnggây ảnh hưởng cũng như cắn phá.
Đặc Tính Và Cách Trồng Lan Đuôi Cáo
Lan Đuôi Cáo (Aerides Rosea) thường còn được gọi là Cáo bắc, là một loại lan thuộc họ giáng hương, phân bố nhiều ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Lai Châu, Điện Biên…Hôm nay tôi sẽ giới thiệu chi tiết hơn về đặc điểm, cách trồng lan Đuôi Cáo.
Đuôi cáo là loại hoa lan đơn thân, thân trụ tròn to cỡ ngón tay cái đến ngón chân cái, phần gốc được bao bọc bởi các bẹ lá cũ, phần trên gồm nhiều lá xếp sát nhau, cây trưởng thành khi khai thác thường dài khoảng 25-35cm, đương nhiên có những cây già trồng lâu năm thì lớn hơn. Đuôi cáo có bản lá phẳng, mỏng, dài khoảng 18-25 cm, bề rộng khoảng 3,5-4 cm, đầu lá tròn chia 2 thùy tròn.
Hoa dạng chùm dài cỡ 20-30 cm gồm nhiều bông đơn kích cỡ khoảng 1.5-2 cm nở vào khoảng tháng 5-7 dương lịch. Mỗi bông hoa nhìn như con chim xà xuống, thường chủ đạo là màu trắng, có chấm tím hồng ở chóp cánh và môi hoa. Hoa Đuôi Cáo thơm khá rõ, nhất là vào buổi trưa.
Loại này có thể ghép gỗ và trồng chậu nhưng cá nhân tôi thích ghép gỗ hơn, an toàn hơn, họ giáng hương nên ghép gỗ thoáng cho rễ gió phát triển mạnh. Nên ghép trong tháng 3 đến tháng 5 dương lịch, lúc này mùa xuân không rét quá mà mưa phùn nhiều, độ ẩm không khí cao. Khi ta mua hàng cân về, chỉ cần cắt rễ khô chết, không cần cắt nhiều như các loại lan hoàng thảo, các rễ còn tươi sau này vẫn có thể đẻ thêm rễ phụ chứ không phải như hoàng thảo khai thác xong là rễ chết. Xối cả cây qua nước sạch rồi ngâm cả cây vào dung dịch thuốc kích rễ khoảng 2h, vớt ra đem ghép lên gỗ. Cứ dùng dây thít nhựa để cố định cây rất nhanh, đẹp và chắc (ai không biết thì gõ dây thít nhựa lên Google tìm hiểu), có thể dùng các loại dây khác tùy điều kiện nhưng cũng như các loại lan khác, hạn chế dùng dây thép, nó thật sự không tốt.
Có thể trồng chậu đất nung với than cục to cỡ quả trứng, đặt vài miếng xơ dừa nhỏ trên mặt chậu tăng cường giữ ẩm, chú ý không vùi giá thế kín đến tận lá gốc, tìm cách buộc, cố định làm sao để chân lá gốc nhô cách mặt giá thể khoảng 2 đốt ngón tay, rễ mới thường đâm ra từ khoảng này chứ đâu, phía dưới gốc cũng xếp than thoáng ra đừng lo chết, ghép gỗ toang hoang cả rễ còn sống cơ mà.
Hình ảnh thực tế Lan Đuôi cáo giống cung cấp bởi chúng tôi
Trồng xong ta đặt nơi râm và mát trong vườn chứ chưa ra rễ treo chỗ khô, nóng, nắng dù có tưới nhiều thì cũng vẫn cứ hay bị nhăn lá, tỷ lệ sống thấp. Hàng ngày xịt nước 1-2 lần tùy gốc đã khô chưa, 5-7 ngày lại phun dung dịch kích rễ một lần. Lúc trồng mà đang có nụ thì nên lấy dao sạch cắt nụ đi để dưỡng cây, có thể bôi vôi hoặc sơn móng tay vào vết cắt, tôi không có gì bôi thì kệ cũng chả sao, chờ chơi hoa năm sau.
Sau này ra rễ, cây khỏe mạnh rồi thì treo nơi nắng trung bình, cái này tùy khí hậu từng nơi, quan sát tình trạng cây để thay đổi cách chăm sóc. Mùa hè nếu thấy lá nhăn thì chuyển vào nơi râm hơn.
Đa phần thời gian trong năm ta phun NPK 30-10-10 để cây sinh trưởng mạnh, đến khoảng cuối tháng 02 dương đem treo ra nơi nắng sáng (vì thời gian này có nắng cũng không mạnh), bắt đầu phun NPK 10-30-30 khoảng 4 lần (kích hoa), mỗi lần cách nhau 1 tuần, tưới nước thì thưa dần đi khoảng 3 ngày/lần, đến cuối tháng 4 thì ngưng tưới hẳn, lá có thể se lại hơi nhăn chút, khi nào thấy cây nhú vòi nụ ở nách lá thì thôi phân, tưới nước lại hàng ngày là được.
Lan đuôi cáo là loài lan rừng nên có sức đề kháng khá mạnh, nhưng có thể vẫn bị một số loại nấm bệnh như: rớt lá chân, thối ngọn ( nhất là những vườn thiếu độ thông thoáng trong mùa mưa), nhện đỏ… Vì thế nhất là vào mùa hè cần phun thuốc ngừa nấm Physan, Ridomil, Daconil…1 lần/tháng và các loại thuốc diệt trừ nhện đỏ, rệp sáp…khi thấy có côn trùng.
Mọi người nếu thấy bài viết có ích hãy nhấn nút Thích (Like), G+1 hoặc tốt nhất là ấn nút Share màu đỏ ngay bên dưới bài viết này, chọn Facebook để chia sẻ bài viết lên trang cá nhân của bạn, sau này muốn tìm lại để đọc cũng tiện (hãy vào web bằng máy tính hoặc nếu dùng điện thoại thì chọn phiên bản Desktop mới hiển thị nút này).
Ai có ý kiến đóng góp xin gửi đến email: phonglanrung.com@gmail.com
Ai copy bài viết hãy ghi rõ nguồn phonglanrung.com
Chúc cả nhà có nhiều lan đẹp!
Giống Cam Xã Đoài_Đặc Tính Chung_Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc
Cây có múi nói chung, cam Xã Đoài nói riêng ưa khí hậu á nhiệt đới, bởi vậy tất cả các vùng trồng có điều kiện khí hậu tương tự như khí hậu vùng á nhiệt đới đều trồng được cam. Một số yếu tố ngoại cảnh chủ yếu ảnh hưởng tới quy hoạch vùng trồng cũng như tới sinh trưởng, phát triển, chất lượng của cam là:
Cam có thể trồng ở vùng có nhiệt độ từ 12 – 390C, trong đó nhiệt độ thích hợp nhất là từ 23 – 290C. Nhiệt độ thấp hơn 12,50C và cao hơn 400C cây ngừng sinh trưởng. Nhìn chung nhiệt độ là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động sống của cây cũng như năng suất, chất lượng quả.
Các thời kỳ cần nước của cam là các thời kỳ: Bật mầm, phân hoá mầm hoa, ra hoa và phát triển quả. Lượng nước cần hàng năm đối với 1 ha cam quýt từ 9.000 – 12.000 m3, tương đương với lượng mưa 900 – 1.200 mm/năm. Với cam, lượng nước cần khoảng 10.000- 15.000 m3/ha/năm.
* Đất: Cam Xã Đoài có thể trồng được trên nhiều loại đất, tuy nhiên trồng trên đất xấu việc đầu tư sẽ cao hơn và hiệu quả kinh tế sẽ thấp hơn trồng trên đất tốt.
Đất tốt đối với cam thể hiện ở mấy mặt chủ yếu sau:
– Đất phải giàu mùn (hàm lượng từ 2 – 2,5% trở lên) hàm lượng các chất dinh dưỡng NPK, Ca, Mg… phải đạt mức độ từ trung bình trở lên (N: 0,1 – 0,15%, P2O5 dễ tiêu từ 5- 7mg/100. K2O dễ tiêu từ 7 – 10 mg/100. Ca, Mg từ 3 – 4 mg/100).
– Độ chua (PH): Độ pH thích hợp là 5,5 – 6,5
– Tầng dầy: trên 1 m
– Thành phần cơ giới cát pha hoặc đất thịt nhẹ (cát thô đến đất thịt nhẹ chiếm 65- 70 %) thoát nước (tốc độ thấm của nước từ 10 – 30 cm/giờ)
– Độ dốc từ 3 – 8 độ
(3) Kỹ thuật trồng và chăm sóc
Cây giống phải được nhân từ cây mẹ đầu dòng tuyển chọn và phải đạt tiêu chuẩn ngành 10 TCN – 2001, cụ thể: cây giống sản xuất bằng phương pháp ghép phải được tạo hình cơ bản trong vườn ươm, có ít nhất 2 cành cấp 1 và không nhiều quá 3 cành. Đường kính cành ghép cách điểm ghép đạt từ 0,5 – 0,7 cm; dài từ 50 cm trở lên, có bộ lá xanh tốt, không sâu, bệnh.
* Chọn đất: có tầng dầy từ 1 m trở lên, kết cấu xốp để giữ mầu, và thoát nước tốt, giàu mùn và các chất dinh dưỡng. Độ dốc của đất từ 3 – 200 (tốt nhất là 3-80 ).
Bao gồm: phát quang, san mặt bằng, thiết kế vườn trồng, đào hố, bón phân lót và lấp hố, các công việc khác như làm đường, mương rãnh tưới tiêu nước,…
– Phát quang và san ủi mặt bằng
Đối với những đồi rừng chuyển sang trồng cây ăn quả nói chung và trồng cam Xã Đoài đều phải phát quang, thậm chí phải đánh bỏ toàn bộ rễ cây rừng và san ủi tạo mặt phẳng tương đối để cho việc thiết kế vườn được dễ dàng. Trừ những nơi đất quá dốc (từ khoảng 100 trở lên) sẽ áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, nghĩa là chỉ phát quang, dãy cỏ, san lấp những chỗ quá gồ ghề sau đó thiết kế và đào hố trồng cây, còn ở những nơi đất không quá dốc hoặc bằng, sau khi phát quang, san ủi sơ bộ có thể dùng cày máy hoặc cày trâu cày bừa một lượt để vừa sạch cỏ vừa tạo cho bề mặt vườn tơi xốp ngăn được sự bốc hơi nước của vườn sau khi bị phát quang.
Đối với các loại đất chuyển đổi khác sang trồng cam Xã Đoài cũng cần phải dọn sạch và tạo lại mặt bằng trước khi thiết kế.
– Thiết kế vườn trồng
Thiết kế vườn trồng bao gồm các nội dung công việc như bố trí lô thửa, đường đi, mương ,rãnh tưới tiêu nước, bố trí mật độ, khoảng cách,…
+ Tuỳ theo quy mô diện tích và địa hình đất mà có thiết kế vườn trồng một cách phù hợp. Đối với đất bằng hoặc có độ dốc từ 3 – 50 nên bố trí cây theo kiểu hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình tam giác (kiểu nanh sấu). Đất có độ dốc từ 5 – 100 phải trồng cây theo đường đồng mức, khoảng cách của hàng cây là khoảng cách của đường đồng mức. Ở độ dốc 8 – 100 nên thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang đơn giản, dưới 80 có thể áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, trên 100 phải thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang kiên cố.
+ Đối với vườn diện tích nhỏ dưới 1ha không cần phải thiết kế đường giao thông, song với diện tích lớn hơn thậm chí tới 5 – 10 ha cần phải phân thành từng lô nhỏ có diện tích từ 0,5 đến 1ha/lô và có đường giao thông rộng để có thể vận chuyển vật tư phân bón và sản phẩm thu hoạch bằng xe cơ giới, đặc biệt đối với đất dốc cần phải bố trí đường lên, xuống và đường liên đồi. Độ dốc của đường lên đồi không quá 100.
– Bố trí mật độ, khoảng cách
Mật độ trồng phụ thuộc vào và khả năng đầu tư thâm canh. Thông thường đối với cam Xã Đoài trồng với khoảng cách 3 m 4 m (tương ứng với 830 cây/ ha). Đối với những vùng đất tốt hoặc có điều kiện đầu tư thâm canh và áp dụng các biện pháp đốn tỉa hàng năm có thể bố trí mật độ dày hơn từ 900 – 1.000 cây/ha.
Khi thiết kế cần thiết kế trồng xen cây ổi theo mật độ 2 hàng cam Xã Đoài, 1 hàng ổi nhằm hạn chế số lượng rày chổng cánh cũng như nâng cao hiệu quả kinh tế/đơn vị diện tích.
Ở những vùng đất dốc, hàng cây được bố trí theo đường đồng mức và khoảng cách giữa 2 đường đồng mức là khoảng cách giữa 2 hình chiếu của cây. Khoảng cách cây được xác định như nhau trên cùng một đường đồng mức, đường đồng mức dài hơn thì có số cây nhiều hơn.
– Đào hố trồng và bón lót:
+ Kích thước hố rộng 0,8 – 1 m, sâu 0,8 – 1 m. Đất xấu cần đào rộng hơn.
+ Bón phân lót cho 1 hố:
Bót lót cho mỗi hố 30 – 50 kg phân chuồng hoai (hoặc 5 – 7 kg phân vi sinh) + 1 kg supelân + bón vôi đủ điều chỉnh pH đất về ngưỡng thích hợp (từ 6 – 6,5). Toàn bộ lượng phân lót trên được trộn đều với tầng đất mặt và lấp hố. Lượng đất lấp hố cao hơn bề mặt hố từ 7 – 10 cm, dùng cọc thiết kế vườn đánh dấu tâm hố. Hố cần phải chuẩn bị trước khi trồng ít nhất 1 tháng.
* Thời vụ trồng và cách trồng
– Trong điều kiện sinh thái huyện Đầm Hà thời vụ trồng tốt nhất vào tháng 2, 3 (có thể trồng vào tháng 8,9).
– Cách trồng: Đào 1 hố nhỏ chính giữa hố trồng, đặt cây vào hố lấp đất vừa bằng cổ rễ hoặc cao hơn 2 – 3 cm. Không được lấp quá sâu, trồng xong phải tưới ngay và dùng cỏ mục ủ gốc (lưu ý phải cách gốc từ 10 – 15 cm để tránh sâu bệnh xâm nhập).
Thường xuyên giữ ẩm trong vòng 20 ngày đến 1 tháng để cây hoàn toàn bén rễ và phục hồi. Sau đó tuỳ thời tiết nắng mưa để chống hạn hoặc chống úng cho cây. Trước khi thu hoạch 1 tháng ngừng tưới nước.
Về lượng nước tưới và số lần tưới phải dựa vào khả năng giữ nước của đất, lượng bốc hơi và lượng mưa để quyết định, phương pháp tưới có thể là tưới bề mặt hoặc tưới nhỏ giọt,… mỗi lần bón phân cần phải tưới nước để phân có thể hoà tan tạo điều kiện cho cây hấp thụ tốt hơn.
– Cắt tỉa tạo hình
+ Cắt tỉa cho cây trong thời kỳ chưa mang quả: Việc cắt tỉa được tiến hành ngay từ khi trồng. Cây đưa ra trồng ở vườn có nhiều cành nhỏ và phân bố không đều. Để có được các dạng hình hợp lý (hình bán cầu), đề tài chọn để lại 3 cành to mập nhất phân bố đều về 3 hướng để làm cành khung gọi là cành cấp 1, các cành khác được cắt tỉa bỏ. Khi cành cấp 1 cao khoảng 50 – 60 cm thì cắt đoạn ngọn chỉ để lại đoạn cành dài 40 – 45 cm. Cành cấp 1 sau khi cắt tiếp tục mọc rất nhiều cành, song mỗi cành cấp 1 cũng chỉ để lại nhiều nhất 3 cành phân bố theo hướng thẳng đứng và vươn ra ngoài tán. Những cành này gọi là cành cấp 2. Tiếp tục làm như vậy sẽ có được các cành cấp 3, cấp 4,… Cắt bỏ những cành mọc xiên vào trong tán.
+ Cắt tỉa cho cây trong thời kỳ mang quả
Cắt tỉa vụ thu: Được tiến hành sau khi thu hoạch quả. Cắt tỉa tất cả các cành sâu bệnh, cành chết, cành vượt, những cành quá dày, cắt tỉa bớt cành cấp 1 (nếu số cành cấp 1/cây quá dày) sao cho cây có bộ khung tán cân đối. Đối với cành thu, cắt bỏ những cành yếu, mọc quá dày.
Cắt tỉa vụ xuân: Được tiến hành vào giữa tháng 1 đến giữa tháng 3 hàng năm: Cắt bỏ những cành xuân chất lượng kém, cành sâu bệnh, cành mọc lộn xộn trong tán, những chùm hoa nhỏ, dầy, dị hình.
Cắt tỉa vụ hè: được tiến hành từ tháng 4 đến hết tháng 6: Cắt bỏ những cành hè mọc quá dày hoặc yếu, cành sâu bệnh, tỉa bỏ những quả nhỏ, dị hình.
Bón phân cho cam Xã Đoài tuỳ thuộc vào tuổi cây và sản lượng hàng năm, nền đất cụ thể. Cây từ 1- 3 năm sau khi trồng (cây chưa có quả – giai đoạn kiến thiết cơ bản). Mỗi năm bón 4 lần vào tháng 2, tháng 5 tháng 8 và tháng 11.
+ Đợt bón tháng 2: 40% đạm + 40% Kali.
+ Đợt bón tháng 5: 30% đạm + 30% Kali.
+ Đợt bón tháng 6 – 7: 30% đạm + 30% Kali.
+ Đợt bón tháng 11: 100% phân hữu cơ + 100% lân + 100% vôi.
Cây lớn từ 4 tuổi trở lên (giai đoạn cây có quả) mỗi năm bón 4 đợt, cụ thể:
+ Tháng 2: thúc cành xuân và đón hoa
+ Tháng 5: thúc cành hè và nuôi quả
+ Tháng 7: thúc cành thu và tăng trọng lượng quả
+ Tháng 11: bón cơ bản tăng sức chống đỡ qua đông
Bón đợt tháng 2: 40% đạm + 40% kali
Bón đợt tháng 5: 30% đạm + 30% kali
Bón đợt tháng 7: 30% đạm + 30% kali
Bón đợt tháng 11: 100% phân hữu cơ + 100% vôi + 100% lân
Năm thứ 10 trở đi cây ổn định về sinh trưởng và năng suất, vì vậy mức bón như năm thứ 9 và tuỳ thuộc vào sự sinh trưởng mà bổ sung tăng hoặc giảm.
Cách bón theo tán cây: cuốc một rãnh rộng từ 30 cm từ mép tán vào trong, sâu 30 cm, phân trộn đều với nhau và rẵc vào rãnh, lấp đất (mỗi lần bón kết hợp với làm cỏ và ủ lại gốc).
* Một số biện pháp chăm sóc khác
– Áp dụng vít cành, kết hợp với cắt tỉa hợp lý để tạo bộ khung tán cân đối.
– Tuỳ từng điều kiện cụ thể của từng vườn, có thể sử dụng các loại phân bón lá, chất điều tiết sinh trưởng,… để bổ dinh dưỡng, tăng khả năng đậu quả,…
(4) Một số loại sâu bệnh hại chính
Trong điều kiện cụ thể tại Đầm Hà, cần lưu ý phòng trừ các đối tượng sâu bệnh hại sau:
* Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citriella):
– Đặc điểm gây hại:
Phá hoại ở thời kỳ vườn ươm và cây nhỏ 3 – 4 năm đầu mới trồng. Trên cây tập trung phá hoại thời kỳ lộc non, nhất là lộc xuân. Trưởng thành đẻ trứng vào búp lá non, sâu non nở ra ăn lớp biều bì lá, tạo thành đường ngoằn ngèo, có phủ sáp trắng, lá xoăn lại, cuối đường cong vẽ trên mặt lá có sâu non bằng đầu kim. Sâu phá hoại mạnh ở tất cả các tháng trong năm (mạnh nhất từ tháng 2 đến tháng 10).
– Phòng trừ: Phun thuốc diệt sâu 1 – 2 lần cho mỗi đợt lộc non bằng: Decis 2,5EC 0,1 – 0,15%; Trebon 0,1 – 0,15%; Polytrin 50EC 0,1 – 0,2%.
* Sâu đục thân (Chelidonium argentatum), đục cành (Nadezhdiella cantori):
– Đặc điểm gây hại:
Con trưởng thành đẻ trứng vào các kẽ nứt trên thân, cành chính. Sâu non nở ra đục vào phần gỗ tạo ra các lỗ đục, trên vết đục xuất hiện lớp phân mùn cưa đùn ra.
+ Bắt diệt trưởng thành (Xén tóc)
+ Phát hiện sớm vết đục, dùng dây thép nhỏ luồn vào lỗ đục để bắt sâu non
+ Sau thu hoạch (tháng 11 – 12) quét vôi vào gốc cây để diệt trứng
+ Phun các loại thuốc xông hơi như Ofatox 400 EC 0,1%; Supracide 40ND 0,2% sau sau đó dùng đất dẻo bít miệng lỗ lại để diệt sâu.
– Đặc điểm gây hại:
+ Nhện đỏ (Panonychus citri): Phát sinh quanh năm hại lá là chính, chủ yếu vào vụ đông xuân. Nhện đỏ rất nhỏ, màu đỏ thường tụ tập thành những đám nhỏ ở dưới mặt lá, hút dịch lá làm cho lá bị héo đi. Trên lá nơi nhện tụ tập thường nhìn trên mặt lá thấy những vùng tròn lá bị bạc hơn so với chỗ lá không có nhện và hơi phồng lên nhăn nheo.
+ Nhện trắng (Polyphagotarsonemus latus): Phát sinh chủ yếu ở trong những thời kỳ khô hạn kéo dài và ít ánh sáng (trời âm u hoặc cây bị che bóng bởi các cây khác). Nhện trắng là nguyên nhân chủ yếu gây ra rám quả, các vết màu vàng sáng ở dưới mặt lá.
– Phòng trừ: Để chống nhện (nhện đỏ và nhện trắng) dùng thuốc Comite, Ortus 50EC, Pegasus 250 pha nồng độ 0,1 – 0,2% phun ướt cả mặt dưới lá và phun lúc cây đang ra lộc non để phòng. Nếu đã bị nhện phá hại phải phun kép 2 – 3 lần, mỗi lần cách nhau 5 – 7 ngày bằng những thuốc trên hoặc phố trộn 2 loại với nhau hoặc với dầu khoáng trừ sâu.
– Đặc điểm gây hại:
+ Rệp cam: Chủ yếu gây hại trên các cành non, lá non. Lá bị xoăn, rộp lên. Rệp tiết ra chất nhờn (gọi là sương mật) hấp dẫn kiến và nấm muội đen.
+ Rệp sáp (Planococcus citri): Trên mình phủ 1 lớp bông hoặc sáp màu trắng, hình gậy, hình vảy ốc, có thể màu hồng hoặc màu xám nâu. Những vườn cam hoặc cây cam ở gần ruộng mía thường hay bị từ mía lan sang.
– Phòng trừ: Dùng Sherpa 25EC hoặc Trebon pha với nồng độ 0,1 – 0,2% phun 1 – 2 lần ở thời kì lá non. Khi xuất hiện rệp, muốn trị có hiệu quả cần pha thêm vào thuốc 1 ít xà phòng để có tác dụng phá lớp sáp phủ trên người rệp làm cho thuốc dễ thấm.
* Bệnh loét (Xanthomonas campestris)
Đặc điểm gây hại: Bệnh gây hại ở thời kì vườn ươm và cây mới trồng 1 – 3 năm, ở thời kỳ cây cho thu hoạch bệnh gây hại cả trên lá bánh tẻ, cành, quả non. Trên lá thấy xuất hiện các vết bệnh không định hình, mới mầu xanh vàng, sau chuyển thành màu nâu xung quanh có quầng vàng. Gặp điều kiện ẩm ướt gây thối rụng lá, gặp điều kiện khô gây khô giòn vết bệnh làm giảm quang hợp. Gây hại nặng trong điều kiện nóng, ẩm (vụ xuân hè).
* Bệnh sẹo (Ensinoe fawcetti Bit. et Jenk)
Triệu chứng gây hại: Vết bệnh thường có mầu nâu nhạt nhô lên khỏi bề mặt lá. Có thể lốm đốm hoặc dày đặc trên mặt lá, hình tròn, bề mặt vết bệnh sần sùi, gồ ghề. Nếu bệnh xuất hiện trên cành sẽ nhìn thấy các đám sần sùi giống như ghẻ lở, màu vàng hoặc nâu. Cành bị nhiều vết bệnh sẽ khô và chết. Bệnh đặc biệt gây hại nặng trong điều kiện nống và ẩm (vụ xuân hè).
+ Cắt bỏ lá bệnh, thu gom đem tiêu huỷ
+ Phun thuốc: Boocđo 1 – 2% hoặc thuốc Kasuran 0,2%.
– Cách pha thuốc boocđô (pha cho 1bình 10 lít):
+ Dùng 0,1 kg Sunfat đồng + 0,2 kg vôi đã tôi (nồng độ 1/100), nếu nồng độ 2% thì lượng sunfat đồng và vôi tăng gấp đôi
+ Lấy 7 lít nước pha với đồng sunfat, 3 lít còn lại pha với vôi, lọc bỏ cặn bã, sau đó lấy dung dịch đồng loãng đổ vào nước vôi đặc vừa đổ vừa quấy cho tan đều sẽ được dung dịch boocđô.
* Bệnh chảy gôm (Phytophthora citriphora):
– Đặc điểm gây hại:
Bệnh thường phát sinh ở phần sát gốc cây cách mặt đất khoảng 20 – 30 cm trở xuống cổ rễ và rễ.
Giai đoạn đầu bệnh mới phát sinh thường vỏ cây bị những vết nứt và chảy nhựa (gôm). Bóc lớp vỏ ra, ở phần gỗ bị hại có màu xám và nhìn thấy những mạch sợi đen hoặc nâu chạy dọc theo thớ gỗ.
Bệnh nặng lớp vỏ bị hại thối rữa (giống như bị dội nước sôi) và tuột khỏi thân cây, phần gỗ bên trong có màu đen xám. Nếu tất cả xung quanh phần cổ rễ bị hại, cây có thể bị chết ngay, còn bị một phần thì cây bị vàng úa, sinh trưởng kém, bới sâu xuống đất có thể thấy nhiều rẽ cũng bị thối.
Đẽo sạch lớp vỏ và phần gỗ bị bệnh, dùng Boocđô 2% phun trên cây và quét trực tiếp vào chỗ bị hại, nếu bệnh đã lan xuống rễ phải đào chặt bỏ những rễ bị bệnh rồi xử lý bằng boocđô.
Có thể dùng các loại thuốc khác như Aliette 80NP, Benlat C nồng độ 0,2 – 0,3% để phun và xử lý vết bệnh.
– Đặc điểm gây hại: Cây có múi nói chung và cam Xã Đoài nói riêng có thể nhiễm bệnh Greening vào bất kỳ giai đoạn nào từ thời kỳ vườn ươm tới khi cây 10 năm tuổi. Tuy nhiên, cam Xã Đoài ít nhiễm bệnh Greening hơn các giống cam quýt khác. Triệu chứng cho thấy: trước khi những lá non trở thành mầu xanh thì trở nên vàng, cứng lại và mất mầu. Mô giữa các gân lá chuyển xanh vàng hoặc hơi vàng và có đường vân. Đầu tiên các đọt và lá non bị bệnh sâu đó có thể biểu hiện trên cả tán. Cùng thời gian đó lá xanh và lá già chuyển sang mầu vàng từ sống lá và gân lá. Các lá bị nhiễm bệnh có thể bị rụng sớm, trong một vài tháng hoặc và năm tất cả các cành cây bị khô đi và tàn lụi.
+ Sử dụng cây giống sạch bệnh
+ Trồng sen ổi để xua đuổi rày chổng cánh.
+ Phun thuốc phòng trừ môi giới truyền bệnh (Rầy chổng cánh)
+ Cắt bỏ tất cả các cành bị bệnh đem đốt
+ Bón phân cân đối tăng sức đề kháng và chống chịu của cây
* Các bệnh do virus và viroid: Trên cam Xã Đoài còn 2 loại bệnh khá nguy hiểm gây hại: bệnh vàng lá (do virus Tristeza gây hạ) và bệnh Exocortis (do viroids gây hại). Các bệnh này không chữa trị được bằng các loại thuốc hoá học như trên mà phải phòng trị bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp, bắt đầu từ khâu nhân giống sạch bệnh tới các kỹ thuật canh tác, vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ môi giới truyền bệnh vv…
Cần thu hoạch kịp thời để không ảnh hưởng tới phẩm chất quả. Khi quả có 1/3 – 1/2 vỏ quả chuyển màu là thu hoạch được.
Khi thu hái nên dùng kéo cắt cuống quả, không làm xây xát vỏ quả, gãy cành. Phân loại trước khi cất giữ hoặc vận chuyển bán ngoài thị trường.
Bạn đang xem bài viết Đặc Tính Cách Trồng Và Chăm Sóc trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!