Xem Nhiều 5/2023 #️ Cơ Sở Sinh Lý Của Việc Bón Phân Cho Cây Trồng – Agriculture # Top 5 Trend | Inkndrinkmarkers.com

Xem Nhiều 5/2023 # Cơ Sở Sinh Lý Của Việc Bón Phân Cho Cây Trồng – Agriculture # Top 5 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Cơ Sở Sinh Lý Của Việc Bón Phân Cho Cây Trồng – Agriculture mới nhất trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

CƠ SỞ SINH LÝ CỦA VIỆC BÓN PHÂN CHO CÂY TRỒNG

Posted On September 29, 2017 at 6:06 am by lovetadmin / Comments Off on CƠ SỞ SINH LÝ CỦA VIỆC BÓN PHÂN CHO CÂY TRỒNG

1. Bù đắp lại phần dinh dưỡng đã mất theo thu hoạch

Dinh dưỡng có trong đất được cây trồng sử dụng, một phần được trả lại khi lá cành rụng xuống. Đối với các cây trồng nông sản, sản phẩm thu hoạch đã lấy đi phần lớn dinh dưỡng có trong đất. Tùy thuộc vào từng loại cây mà mức độ dinh dưỡng bị mất đi cũng khác nhau: đối với cây rau và cây lấy củ dinh dưỡng mất đi nhiều hơn so với các dòng cây lấy hạt.

Để ngăn chặn sự nghèo kiệt của đất và để có thu hoạch cao cần phải bón phân. phương pháp bón phân dựa trên quy luật tối thiểu ở trong đất. Có nghĩa các dòng phân bón bổ sung dinh dưỡng trong đất giúp từng thành phần dinh dưỡng trong đất luôn lớn hơn mức tối thiểu. Thành phần dinh dưỡng trong đất lớn hơn mức tối thiểu giúp cây trồng có thu hoạch cao và ổn định mà không làm giảm độ phì trong đất, Thông thường sử dụng các dòng phân NPK với nền sinh hóa kết hợp hệ thống canh tác tiên tiến.

2. Dựa trên đặc điểm sinh học của cây trồng

Mỗi giống cây ở từng giai đoạn sinh trưởng phát triển nhu cầu về dinh dưỡng là không giống nhau. Phụ thuộc vào 3 yếu tố

Đặc điểm di truyền

Đặc điểm di truyền quyết định đặc điể trao đổi chất theo mức đọ phát triển của từng cơ quan, trong từng giai đoạn phát triển của các cá thể. Cây trồng lấy lá cần nhiều nguyên tố vi lượng B, Zn… Cây trồng lấy củ cần nhiều Kali và lân. Họ nhà đậu thường cần photpho hơn nito. Các loài rau ăn lá nói chung cần nhiều đạm, tuy nhiên khả năng hấp thu của các laoif là khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các thể.

Theo đặc tính của các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây

Vào từng giai đoạn khác nhau nhu cầu về dinh dưỡng (Liều lượng và thành phần tỷ lệ giữa các yếu tố dinh dưỡng) là khác nhau. Cây ngô nếu thiếu photpho trong 15 ngày đầu tiên không có khả năng ra hoa đậu trái. Thông thường cây con cũng cần một lượng tương đối photpho trong pha sinh trưởng. Trước thời ky ra hoa đậu trái nhu cầu về dinh dưỡng của cây trồng luôn ở mức cao do nhu cầu tăng sinh về thể tích và sinh khối nên cần cung cấp đầy đủ dinh dưỡng.

Theo (Hirano, 1987) bón phân cho lua lúc trỗ chứa nhiều nito giúp cây tăng khả năng ra bông hạt lúa ít bị lép. Đối với các dòng cây lấy củ như khoai lang, khoai tây… thời gian đầu nên bón nhiều đạm để bộ lá phát triển. Thời kỳ tạo củ tăng lượng Kali giảm lượng Nito. Đối với ngô bón nito tốt nhất từ 6 lá trở đi, giai đoạn đầu nên sư dụng nhiều lân. tạo hạt nhiều nitơ và kali.

Theo đặc điểm đất đai

Mỗi loại đất khác nhau có đặc điểm thổ nhưỡng khác nhau, nên hàm lượng dinh dưỡng trong đất cũng khác nhau. Tất cả đều ảnh hưởng đến quá trình hấp thu, vận chuyển các chất dinh dưỡng trong cây. Để đạt năng xuất cao chúng ta cần phân tích hàm lượng dinh dưỡng tích lũy trong cây trông tương ứng, xác định hệ số sử dụng phân bón.

Theo đào thế tuấn (1969) để cây trồng đạt năng xuất 5-6 tấn lúa trên 1 ha cần 120 Kg nito: 60 Kg Lân : 60 Kg Kali

Nhìn chung:

Việc bón phân hợp lý phải dựa trên nhu cầu dinh dưỡng của từng loại cây vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển giúp đảm bảo việc hấp thu tốt nhất mang lại hiệu quả cao nhất. Trong việc bón phân yếu tố nhiệt độ và độ ẩm giữ vai trò chủ đạo quyết định hiệu quả.

Tư vấn kĩ thuật:

0933.067.033

Share on Facebook

Share

Share on Twitter

Tweet

Share on Pinterest

Share

Cơ Sở Khoa Học Của Việc Bón Phân

Mối quan hệ giữa Đất – Cây trồng – Phân bón

Chúng ta biết quá trình hình thành đất không thể thiếu yếu tố sinh học, mà vai trò của thực vật đã đóng góp không nhỏ. Ban đầu trong quá trình sinh trưởng, phát triển các loài thực vật hút nước và chất khoáng từ mẫu chất (sản phẩm trung gian giữa đá mẹ và đất), kết hợp quá trình quang hợp để tạo thành các chất hữu cơ trong cơ thể thực vật. Sau khi chết, xác của chúng bị phân hủy, trả lại cho môi trường các chất khoáng đã lấy đi từ mẫu chất và bổ sung thêm cacbon, nitơ, oxy… làm tăng thành phần chất hữu cơ trong mẫu chất. Sự tích luỹ chất hữu cơ làm cho mẫu chất xuất hiện độ phì và chuyển thành đất. Chu kỳ Đất – Cây trồng – Đất diễn ra liên tục trong tự nhiên làm cho độ phì đất tăng dần và trở nên ngày một thành thục. Như vậy, có thể nói mối quan hệ Đất – Cây trồng là mối quan hệ cộng sinh. Đất đai cung cấp dinh dưỡng khoáng cho thực vật và thực vật cung cấp chất hữu cơ (nguồn năng lượng sống) cho đất, giúp mọi hoạt động sống trong đất diễn ra một cách tích cực.

Trong thực tế người ta thấy: 1/ Tuổi rừng càng già đất càng màu mỡ, tại sao? Vì tuổi rừng càng già quá trình tích lũy sinh học càng cao; 2/ Dưới các kiểu rừng khác nhau các loại đất cũng có độ phì khác nhau, tại sao? Vì các kiểu rừng khác nhau quá trình tích lũy sinh học khác nhau. Ví dụ: đất dưới rừng tre, nứa hoặc trảng cỏ có độ phì thấp hơn đất dưới rừng cây lá rộng; 3/ Năng suất và chất lượng cây trồng giảm dần sau khi chuyển từ đất rừng tự nhiên sang đất nông nghiệp, tại sao? Vì khi chuyển từ đất rừng tự nhiên sang đất nông nghiệp quá trình tích lũy sinh học tại chỗ giảm.

Như vậy, trong sản xuất nông nghiệp ngày nay mối quan hệ cộng sinh Đất – Cây trồng trong tự nhiên bị phá vỡ bởi mục đích kinh tế của con người thông qua việc thu hái nông sản. Việc thu hái nông sản của con người đã làm giảm đi quá trình tích lũy sinh học tại chỗ và làm các chất dinh dưỡng khoáng trong đất cũng mất dần theo, dẫn đến đất đai ngày một mất đi độ màu mỡ. Vì vậy, mối quan hệ Đất – Cây trồng trong tự nhiên đã trở thành mối quan hệ Đất – Cây trồng – Phân bón. Mối quan hệ này mở đường cho các định luật về phân bón và dinh dưỡng cây trồng phát triển. Thực tế đã chứng minh nhiều vùng đất trù phú đã bị suy thoái do quá trình canh tác nông nghiệp quá mức.

Bón phân là để bù đắp lượng dinh dưỡng khoáng cho đất giúp cây trồng hút được nhiều chất dinh dưỡng hơn, phát triển tốt hơn, bộ rễ cây trồng ăn sâu hơn, các chất dinh dưỡng từ tầng sâu được huy động nhiều hơn, sinh khối và sinh khối rễ được tạo thành nhiều hơn. Việc để lại một khối lượng rễ cây và quá trình tích lũy sinh học khác lớn hơn trong đất hàng năm, giúp cung cấp nhiều mùn cho đất, làm đất tơi xốp hơn, dung tích hấp thu và độ hoãn sung của đất tốt hơn. Nhà nông có thể tiết kiệm phân bón hơn không phải chỉ vì chất dinh dưỡng từ chất hữu cơ được trả lại đất mà còn vì hệ số sử dụng phân bón được tăng lên.

Bón phân là bón cho cây nhưng thông qua đất, nên khi bón phân phải hiểu đầy đủ tính chất đất đai. Đất có thành phần cơ giới nặng (nhiều sét), hoặc nhẹ (nhiều cát) đều phải được ưu tiên bón phân hữu cơ. Bón phân hữu cơ cho đất có thành phần cơ giới nặng thì vùi nông, còn cho đất có thành phần cơ giới nhẹ thì phải vùi sâu và đất nặng thì có thể bón nhiều, bón tập trung, trong khi đất nhẹ phải bón ít một, bón rải làm nhiều lần và bón sát yêu cầu của cây.

Bón phân cho cây nên phải bón theo nhu cầu của cây. Cây trồng có loại cần nhiều đạm (cây lấy lá), có loại cần nhiều kali (cây lấy củ, cây ăn quả, cây lấy đường). Thóc giống được bón nhiều lân thì hạt sáng, chất lượng hạt giống tốt, mạ gieo bằng hạt giống có nhiều lân sức sống khỏe hơn, năng suất cao hơn. Những cây lấy dầu, cây họ đậu, cây gia vị lại cần được cung cấp đủ lưu huỳnh.

Không chỉ yêu cầu chung khác nhau mà từng giai đoạn sinh trưởng của mỗi cây cũng có yêu cầu khác nhau. Giai đoạn đầu cây cần nhiều lân và đạm, giai đoạn sau cây lại cần nhiều đạm, kali và các nguyên tố vi lượng…

Giai đoạn nào cũng không được bón quá mức nhu cầu của cây và giai đoạn nào cũng phải cung cấp chất dinh dưỡng một cách cân đối.

Bón phân cho cây, mà sự phát triển của cây lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện thời tiết, khí hậu nên có thể phải điều chỉnh việc bón phân cho phù hợp với tình hình thời tiết. Cây gặp gió mùa đông bắc ngừng phát triển thì không được bón đạm vì có thể làm giảm tính chịu rét của cây, nên có thể định bón mà phải lùi lại và lại có khi phải bón sớm hơn do cây phát triển sớm. Trên đất dốc, việc bón phân phải dựa vào điều kiện thời tiết (mưa gió) đôi khi phải đợi trời quang mây tạnh mới bón để tránh rửa trôi phân bón, nhưng đôi khi cũng phải chờ những giọt mưa để hòa tan phân giúp đưa phân tới tầng sâu của rễ được thuận lợi hơn.

Nên khi sử dụng phân bón phải hiểu nguyên lý chung để vận dụng sát, đúng cho từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, trong công việc đồng áng đòi hỏi phải được theo dõi, ghi chép và rút kinh nghiệm thường xuyên.

Tóm lại Trong sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng phân bón phải hướng tới tối đa hóa hiệu quả sử dụng của phân bón, phải làm cho cây trồng có thể hấp thu được nhiều nhất lượng dinh dưỡng từ phân bón. Việc xác định đúng loại dinh dưỡng cây cần là điều được đề cập trước tiên, tiếp theo là lượng cây cần, tiếp nữa là thời điểm cây cần cung cấp và một điều không thể không đề cập đó là bón thế nào để có thể đảm bảo thuận lợi nhất cho việc hấp thụ dinh dưỡng của cây và giảm tối đa sự thất thoát dinh dưỡng của phân.

Do vậy, có 4 nguyên tắc cần phải áp dụng khi sử dụng phân bón: 1/Bón đúng loại; 2/Bón đúng lượng; 3/Bón đúng thời điểm; 4/Bón đúng cách.

1. Đúng loại: là sử dụng đúng loại phân mà cây cần, khi cây cần đạm thì không thể dùng lân hay kali để thay thế, hoặc khi cây cần kali cũng không thể dùng đạm hay lân để thay thế và ngược lại. Đất chua phèn không nên sử dụng phân bón có chứa lưu huỳnh và có tính chua cao, đất kiềm lại nên sử dụng phân bón có tính chua. Vì vậy, cần phải bón đúng loại phân cây cần, việc bón không đúng loại không những không giúp cây trồng phát triển mà còn gây hại cho cây.

2. Đúng lượng: là bón đúng lượng phân bón cây cần cho quá trình sinh trưởng, phát triển theo mỗi giai đoạn. Mỗi một thời kỳ sinh trưởng, phát triển khác nhau cây cần một lượng dinh dưỡng khác nhau cho mỗi yếu tố. Do vậy, việc bón đúng lượng còn được gắn thêm với đúng tỷ lệ. Không thể dùng lượng và tỷ lệ phân bón lót để bón thúc và ngược lại. Việc xác định đúng lượng và tỷ lệ phân bón cho cây phụ thuộc vào nồng độ chất khoáng tối thích mà cây hấp thụ cũng như tổng sinh khối của cây được hình thành thời kỳ đó trên nền tảng hiệu suất sử dụng của phân.

3. Đúng lúc: quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng được chia làm 2 thời kỳ. Thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng và thời kỳ sinh trưởng sinh thực và ở mỗi thời kỳ lại được chia làm 2 hay nhiêu hơn các giai đoạn. Tùy thuộc vào mỗi loại cây trồng mà có yêu cầu chế độ dinh dưỡng khác nhau cho mỗi giai đoạn. Không thể bón thúc hoa mà lại để có trái mới bón hay không thể bón thúc đẻ nhánh cho lúa mà lại để đến khi làm đòng mới bón … Vì vậy, cần phải bón đúng lúc, đúng thời điểm thì việc bón đúng loại, đúng lượng mới có ý nghĩa và mới phát huy được hiệu quả cũng như ý nghĩa của việc bón phân.

4. Đúng cách: là bón như thế nào để cây trồng có thể hấp thu dinh dưỡng được hiệu quả nhất, hạn chế tối đa sự thất thoát phân bón. Đất dốc, cây hàng năm nên nặng bón lót. Đất cát, cát pha, thịt nhẹ bón phân nên chia làm nhiều lần, đất thịt và đất sét có thể chia ít lần hơn. Không nên bón sát gốc cây, nên bón cách gốc 2/3 bán kính vùng rễ. Bón phân kết hợp xới xáo, làm cỏ và vùi lấp để hạn chế bay hơi (mất đạm) và rửa trôi dinh dưỡng. Khi đã xác định được đúng phân, đúng liều lượng và đúng thời điểm bón thì việc bón không đúng cách sẽ làm giảm đáng kể hiệu suất sử dụng của phân.

Tuy nhiên, không phải tất cả nhà nông chúng ta có thể dễ dàng áp dụng được 4 đúng trong sử dụng phân bón. Bởi để có cơ sở thực hiện 4 đúng, cần có 4 phải: 1/Phải hiểu cây, để biết nhu cầu cây cần gì, cần bao nhiêu; 2/Phải hiểu đất, để biết khả năng cung cấp của đất; 3/Phải hiểu phân, để biết khả năng đáp ứng của phân; 4/Phải có trang thiết bị máy móc, để hỗ trợ quá trình định lượng và đây là hạn chế mà không phải ai trong số nhà nông chúng ta cũng có thể đáp ứng được. Do vậy, để có thể giúp nhà nông sử dụng phân bón một cách hiệu quả Tiên Nông đặc biệt quan tâm nghiên cứu và phát triển sản phẩm phân bón theo hướng chuyên dùng giúp nhà nông có thể sử dụng dễ dàng và hiệu quả hơn. Cơ sở khoa học của sản phẩm phân bón chuyên dùng đó là các định luật về sử dụng phân bón

1. Định luật trả lại

Tổng kết các kết quả thực nghiệm về dinh dưỡng khoáng của cây trồng vào cuối thế kỷ XIX các nhà khoa học Pháp (Boussingault, Deheran) và Đức (Liebig), những người được xem là các nhà tiên phong về hóa học nông nghiệp đã phát biểu định luật:

Để cho đất khỏi bị kiệt quệ, cần trả lại cho đất tất cả những nguyên tố cây trồng lấy đi theo sản phẩm thu hoạch.

Định luật là căn cứ để xây dựng kế hoạch phân bón theo kế hoạch năng suất nếu tính đầy đủ đến hệ số sử dụng phân bón của cây. Định luật mở đường cho phân hóa học phát triển khiến cho năng suất tăng lên rất nhanh.

Song định luật này chưa đầy đủ, vì trong đất luôn có quá trình chuyển hóa về lý, hóa, sinh phong phú và phức tạp. Nếu chỉ đơn thuần trả lại các chất khoáng bị cây trồng lấy đi là chưa đủ, mà còn phải chú ý đến quá trình khoáng hóa chất hữu cơ và quá trình mùn hóa trong đất sau canh tác. Ngoài việc duy trì chất khoáng còn phải duy trì hàm lượng mùn cho đất. Nếu các quá trình lý, hóa, sinh không được cải thiện thông qua việc duy trì mùn cho đất một cách hợp lý, thì dù có trả lại đầy đủ chất khoáng cây trồng cũng khó sử dụng một cách có hiệu quả.

Định luật cần được mở rộng: Ngoài việc trả lại những yếu tố do cây trồng lấy đi còn phải trả lại lượng chất dinh dưỡng bị rửa trôi, bay hơi và cả các chất mất đi do hậu quả của quá trình canh tác.

2. Định luật yếu tố hạn chế thiếu

Việc thiếu một nguyên tố dinh dưỡng dễ tiêu đối với cây trồng trong đất (yếu tố hạn chế thiếu) hạn chế hiệu lực của các nguyên tố khác và do vậy làm giảm năng suất cây trồng.

Trong thực tế, khi hàm lượng một nguyên tố nào đó trong đất vượt quá nhu cầu của cây, không cân đối với các nguyên tố khác thì chính nguyên tố đó lại hạn chế tác dụng của các nguyên tố khác. Do vậy, định luật yếu tố hạn chế thiếu được mở rộng thành định luật về yếu tố hạn chế như sau:

Đất thiếu hay thừa một nguyên tố dinh dưỡng dễ tiêu nào đó so với yêu cầu của cây cũng đều làm giảm hiệu quả của các nguyên tố khác và do đó làm giảm năng suất của cây trồng.

Việc xác định một tỷ lệ cân đối các chất dinh dưỡng cho cây là nền tẳng làm gia tăng hiệu suất sử dụng phân bón Tiến Nông.

3. Định luật tương tác giữa các nguyên tố dinh dưỡng và việc bón phân cân đối

Để phát triển được bình thường, cây trồng cần có một tỷ lệ xác định các nguyên tố cần thiết cho quá trình sống. Các công trình nghiên cứu về sinh lý thực vật đã chứng minh, khi tỷ lệ các nguyên tố dinh dưỡng đạt mức cân bằng tối thích thì cây trồng có năng suất cao nhất. Cây trồng hút dinh dưỡng từ đất cho nên mọi sự mất cân đối trong đất sẽ phản ảnh vào nồng độ các chất khoáng trong dịch bào của cây.

Do mối tương tác giữa các nguyên tố dinh dưỡng, việc cung cấp nguyên tố này sẽ ảnh hưởng đến một hay một số nguyên tố khác. Khi bón nguyên tố này làm cây hút các nguyên tố khác nhiều lên và năng suất tăng, đó là mối tương tác dương hay giữa các nguyên tố đó có mối quan hệ tương hỗ. Ngược lại khi việc cung cấp nguyên tố này làm cho cây hút nguyên tố kia ít đi và làm năng suất giảm xuống người ta gọi đó là mối tương tác âm hay giữa hai nguyên tố đó có mối quan hệ đối kháng.

Thí dụ, mối tương tác lân-kẽm (P-Zn), Takkar và ctv (1976) cho thấy khi tăng lượng lân bón cho ngô lên quá 44 kg/ha thì rễ, thân, lá và năng suất hạt của ngô đều giảm một cách đáng kể. Người ta nói giữa lân và kẽm có mối tương tác đối kháng. Muốn khắc phục hiệu ứng này thì phải bón kẽm cho ngô. Tiwan và Pathak , 1978 thấy ở lúa cũng có hiện tượng tương tự.

Người ta đưa ra những lý do sau đây để giải thích việc thiếu kẽm do lân: (1) lân làm giảm kẽm dễ tiêu trong đất; (2) lân làm giảm việc hút kẽm của bộ rễ do vậy làm chậm việc chuyển kẽm từ rễ lên thân; (3) xuất hiện hiệu ứng hòa loãng đối với kẽm trên ngọn cây do lân làm tăng cường sinh trưởng của cây; (4) P-Zn không cân bằng làm trao đổi chất trong cây bị rối loạn; (5) lân làm nhiễu loạn chức năng của kẽm ( Olssen, 1972 và Katyal, 1992).

Sản phẩm phân bón chuyên dùng, hay phân bón hỗn hợp NPKSi nói chung của Tiến Nông, khi sản xuất đều được tính đến mối quan hệ tương hỗ và sự đối kháng của các chất dinh dưỡng có đề cập đến đặc điểm chung của mỗi nhóm đất. Do vậy, phân bón Tiến Nông luôn cho hiệu suất sử dụng cao.

4.  Định luật bội thu không hẳn tỷ lệ thuận với lượng phân bón cho cây (Mitscherlich)

Bội thu không hẳn tỉ lệ thuận với việc bón thêm phân bón. Khi tăng lượng phân bón lên gấp đôi, bội thu không tăng gấp đôi, mà tỷ suất lợi nhuận theo phân bón của nhà nông giảm dần. Đây chính là cơ sở khoa học của việc hướng dẫn liều lượng bón phân của mỗi sản phẩm phân bón Tiến Nông cho cây trồng.

Ví dụ: Trong một thí nghiệm phân bón cho ngô, khi tăng dần lượng phân bón và ghi lại năng suất ở mỗi mức bón tương ứng, thì thấy như sau:

– Công thức không bón, năng suất được 40,9 tạ/ha

– Công thức bón 40 N/ha năng suất đạt 56,5 tạ/ha, tăng 15,6 tạ/ha so với không bón

– Công thức bón 80 N/ha năng suất đạt 70,8 tạ/ha, tăng 29,9 tạ/ha so với không bón

– Công thức bón 120 N/ha năng suất đạt 76,2 tạ/ha, tăng 35,3 tạ/ha so với không bón

– Công thức bón 160 N/ha năng suất đạt 79,9 tạ/ha, tăng 39,0 tạ/ha so với không bón

+ Nếu tính hiệu suất chung:

– Bón mức 40 kg N/ha hiệu  suất  đạm bón là 39 kg ngô/1 kg đạm bón

– Bón mức  80 kg N/ha  hiệu suất đạm bón là 37,37 kg ngô/1 kg N bón     

– Bón mức  120 kg N/ha  hiệu suất đạm bón là 29,41 kg ngô/1 kg N bón

– Bón mức  160 kg N/ha hiệu suất đạm bón là 24,37 kg ngô /1 kg N bón

+ Nếu tính hiệu suất phân khoảng từng 40 kg N bón một thì thấy:

– 40 kgN đầu tiên hiệu suất là 39 kg ngô/1 kg N bón

– 40 kg N thứ hai  hiệu suất là 35,76 kg ngô/1 kg N bón

– 40 kg N thứ ba hiệu suất là 13,50 kg ngô/1 kg N bón

– 40 kg N thứ tư hiệu suất là 9,25 kg ngô/1 kg N bón

Rõ ràng, khi tăng lượng bón phân thì năng suất tăng, nhưng hiệu xuất phân bón giảm và trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa, việc đầu tư phân bón để có năng suất cao không phải là chỉ tiêu quan tâm hàng đầu, mà chính là chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên mỗi đồng phân bón đầu tư mới thực sự cần thiết phải quan tâm.

Phân bón Tiên Nông luôn hướng tới việc tối đa hóa lợi nhuận cho người trồng trọt và đó là sự khác biệt so với các sản phẩm phân bón khác

Bón phân là bón cho cây nhưng thông qua đất, nên cần thiết phải hiểu cơ bản về đất.

Cơ Sở Lý Thuyết Tạo Phức Chelate Và Ứng Dụng Trong Sản Xuất Phân Bón

1. Giới thiệu các loại phức Chelate, hợp chất hóa học tạo phức Chelate

Chelate là gì? Chelate là phức chất vòng càng giữa các hợp chất hữu cơ dẫn xuất từ amino polycacboxylic axit với các ion kim loại.

Các dạng tồn tại của trung, vi lượng chelate thường ở hai dạng chủ yếu sau:

– EDTA viết tắt từ chữ: Ethylen Diamin Tetraacetic Axit và

– EDDHA, viết tắt từ chữ: Ethylene Diamin Di(o-Hydroxyphenylacetic) Axit, ngoài hai dạng trên đôi khi còn ở dạng:

– EHPG viết tắt từ chữ: (N,N’-Ethylenebis-2-(o-HydroxyPhenyl) Glycine) một dạng chiết xuất từ Amino axit.

1.2. Các hợp chất hữu cơ dẫn xuất từ amino Polycacboxylic axit

NTA – Nitrilo Triaxetic Axit

EDTA – Etylen Diamino Tetraaxetic Axit.

– Etylen Diamino Tetraxetic Axit (EDTA): H 4 Y

– Dinatri etylen diamino tetra axit: Na 2H 2 Y

Để phản ứng xảy ra được dễ dàng người ta thường dùng Na 2H 2Y làm dung dịch tạo phức. Vì vậy để thuận tiện cho việc gọi tên ta quy ước H4Y và NaH 2 Y đều gọi chung là EDTA.

Ethylene Diamine-N,N’-bis (2-Hydroxyphenylacetic) Axit: EDDHA

DTPA – Diethylene Triamine Pentaacetic Acid

Là hoá chất đắt tiền, được sử dụng nhiều trong lĩnh vực dược để sản xuất các thuốc uống có chứa vi lượng: Zinc-DTPA, Canxi-DTPA…

Trong khuôn khổ bài viết này chúng ta chỉ nghiên cứu về phức EDTA Chelate, phức điển hình được làm nguyên liệu trong sản xuất phân bón và pha chế dung dịch dinh dưỡng cây trồng thủy canh.

1.3. Tìm hiểu về EDTA, EDTA là gì?, tính chất vật lý hóa học của EDTA

– EDTA là từ viết tắt của EthyleneDiamineTetraacetic Acid. Đây là một axít hữu cơ mạnh (hơn 1.000 lần so với axít acetic), được tổng hợp vào năm 1935 bởi nhà bác học F. Munz.

– EDTA và các muối của nó thường ở dạng tinh thể màu trắng hoặc bột, không bay hơi và có độ tan cao trong nước.

– Các sản phẩm thương mại thường ở dạng muối như là CaNa 2EDTA, Na 2EDTA, Na 4 EDTA, NaFeEDTA,…

2. Cơ sở lý thuyết tạo phức trung, vi lượng dạng EDTA Chelate

2.1. Sự tạo phức của EDTA và ion kim loại

– EDTA trong nước là axit yếu, phân ly theo 4 nấc có các hằng số pK1 = 2,0; pK2 = 2,67; pK3 = 6,16; pK4 = 10,26.

– Trong dung dịch EDTA phân ly theo phương trình: Na 2H 2Y → 2Na+ + H 2Y 2-

Anion H 2Y 2- tạo phức với hầu hết các cation kim loại:

Phản ứng tổng quát của EDTA với ion kim loại: M n+ + H 2Y 2- = MY(n-4) + 2H+

Ta nhận thấy:

– Các ion kim loại không phân biệt hoá trị tạo phức với EDTA theo mol là 1:1

2.2. Mô tả giải thích quá trình phản ứng của Cation kim loại với EDTA

– Sự tạo thành phức của kim loại với Amoniac (NH 3): phân tử NH 3 kết hợp với các ion kim loại bằng những liên kết cho nhận giữa cặp electron tự do của N với ion kim loại tạo thành những chất tan trong dung dịch.

Cấu trúc phức chelate

2.3. Ảnh hưởng của pH môi trường đối với phản ứng giữa ion kim loại với EDTA

Trong phản ứng tạo phức luôn đẩy ra 2 ion H+, do vậy độ bền của phức chịu sự ảnh hưởng của pH môi trường là khá lớn.

– Hằng số bền của phức (Kb):

Trong dung dịch phức MY phân ly theo phương trình: MY(n-4) → M n+ + Y 4-

– EDTA di chuyển vào trong đất và tạo phức với các kim loại vết cũng như là các kim loại kiềm thổ (Na+, K+, Ca2+,…), từ đó làm tăng độ hòa tan của kim loại. Đặc biệt là trong đất phèn, EDTA sẽ tạo phức kẹp (chelate) Fe-EDTA từ đó làm giảm quá trình hoạt động của Fe3+. Trong môi trường kiềm, EDTA lại tạo phức chủ yếu với Ca2+ và Mg2+ tạo thành CaMg-EDTA làm giảm độ cứng của nước.

2.4. Một số phức EDTA chelate, tính chất hóa lý và độ bền của phức

Một số phức EDTA chelate ứng dụng làm dinh dưỡng cây trồng sau:

Tên gọi tắt: EDTA-Fe-13

Tên gọi đầy đủ: Ethylenediaminetetraacetic acid, ferric sodium complex

Khối lượng phân tử: 421,1

% Khối lượng kim loại dạng chelate: 13,12

Độ tan trong nước: 99,98%

pH (nồng độ 1%): 4-6,5

Tên gọi tắt: EDTA-Mn-13

Tên gọi đầy đủ: Ethylenediaminetetraacetic acid, manganese disodium complex

Khối lượng phân tử: 389,1

% Khối lượng kim loại dạng chelate: 13

Độ tan trong nước: 99,97%

pH (nồng độ 1%): 6-7

​Tên gọi tắt: EDTA-Cu-15

Tên gọi đầy đủ: Ethylenediaminetetraacetic acid, copper disodium complex

Khối lượng phân tử: 397,7

% Khối lượng kim loại dạng chelate: 15

Độ tan trong nước: 99,9%

pH (nồng độ 1%): 6-7

​Tên gọi tắt: EDTA-Zn-15

Tên gọi đầy đủ: Ethylenediaminetetraacetic acid, zinc disodium complex

Khối lượng phân tử: 399,6

% Khối lượng kim loại dạng chelate: 15

Độ tan trong nước: 99,97%

pH (nồng độ 1%): 6-7

​Tên gọi tắt: EDTA-Mg-6

Tên gọi đầy đủ: Ethylenediaminetetraacetic acid, magnesium disodium complex

Khối lượng phân tử: 358.52

% Khối lượng kim loại dạng chelate: 6

Độ tan trong nước: 99,95%

pH (nồng độ 1%): 6-7

​Tên gọi tắt: EDTA-Ca-10

Tên gọi đầy đủ: Ethylenediaminetetraacetic acid, calcium disodium complex

Khối lượng phân tử: 410.13

% Khối lượng kim loại dạng chelate: 10

Độ tan trong nước: 99,98%

pH (nồng độ 1%): 6-7

3. Ứng dụng của phức Chelate trong sản xuất phân bón và dung dịch thủy canh.

3.1 Ứng dụng phức Chelate trong sản xuất phân bón lá, dung dịch thủy canh, phân bón dùng trong công nghệ tưới nhỏ giọt.

Dung dịch thủy canh, phân bón tưới nhỏ giọt cần sử dụng các chất dinh dưỡng đa lượng tan hoàn toàn trong nước như: KNO3, KH2PO4 (MKP), K2SO4, CaNO3… dinh dưỡng trung, vi lượng dạng chelate (tan hoàn toàn) như: CaEDTA, MgEDTA, CuEDTA, ZnEDTA, FeEDTA, MnEDTA… (nếu sử dụng trung vi lượng dạng vô cơ như FeSO4, CuSO4… bắt buộc phải dùng Na 2 EDTA để trung hòa hoàn toàn trước khi phối trộn với dinh dưỡng đa lượng.

Đối với phân bón lá muốn tăng hiệu suất sử dụng, tăng nhanh thời gian phát huy hiệu quả của sản phẩm chúng ta có thể một số chất điều hòa sinh trưởng bằng cách thêm các nguyên liệu GA3, NAA, Compound Sodium Nitrophenolate… chất bám dính.

Một số sản phẩm phân bón lá​, dung dịch thủy canh, phân bón tưới nhỏ giọt có sử dụng trung, vi lượng chelate

Dung dịch thủy canh Tháp Xanh chuyên dùng cho rau ăn lá

Phân bón cho hệ thống tưới nhỏ giọt Hakaphos của hãng BEHN MEYER

3.2. Ứng dụng trong các sản phẩm phân hỗn hợp NPK cao cấp, phân bón gốc công nghệ cao (Siêu đạm, siêu Urea, đạm tan chậm, đạm bọc vi lượng, đạm Urea + TE…)

Khác với phân bón lá, dung dịch thủy canh và phân bón tưới nhỏ giọt – phân bón gốc thông thường không đòi hỏi khắt khe về độ hòa tan và hình thức của sản phẩm, vì vậy các nhà sản xuất thường lựa chọn một số nguyên liệu cung cấp trung, vi lượng vô cơ với giá thành hợp lý.

Ưu nhược điểm của trung, vi lượng dạng Chalate ứng dụng sản xuất phân bón gốc:

+ Ưu điểm: Trung, vi lượng dạng Chelate tan hoàn toàn trong nước (99,5 – 99,9%, pH 4 – 7), hiệu quả cao gấp hằng chục đến hàng trăm lần vi lượng vô cơ thông thường, lượng dùng rất ít, không chứa gốc Clo, không ăn mòn thiết bị sản xuất, là hợp chất hữu cơ nên thân thiện với con người và động, thực vật.

+ Nhược điểm: Trung, vi lượng dạng Chelate có giá đắt hơn nhiều lần (từ 5 – 20 lần) vi lượng vô cơ thông thường, lượng dùng ít nên khó phối trộn đồng đều trong hỗn hợp thành phẩm.

Vì vậy các sản phẩm phân bón gốc thông thường nhà sản xuất thường chủ yếu sử dụng trung vi lượng dạng gốc vô cơ như: CaCl2, MgSO4.H2O, CuSO 5.H 2O, ZnSO 4.H 2O, MnSO 4.H 2 O… giá thành hợp lý, dễ phối trộn. Đối với gốc chelate chỉ sử dụng sắt chelate (FeEDTA) vì sắt vô cơ (FeSO4) rất dễ tạo kết tủa và không có tác dụng trong điều kiện pH thông thường.

Đối với các sản phẩm cao cấp như: Đạm Vi lượng, Siêu đạm, Đạm Urea + TE, Đạm tan chậm, NPK cao cấp… đòi hỏi về hình thức sản phẩm, độ tan tốt và lượng phối trộn thêm trung, vi lượng ít mà vẫn đảm bảo hiệu quả trên cây trồng – Yêu cầu gần như bắt buộc là sử dụng các trung, vi lượng dạng chelate.

Một số sản phẩm cao cấp sử dụng trung, vi lượng dạng chelate.

Đạm vàng Tiến Nông: N: 45%; B: 100ppm; Zn: 50ppm

Siêu đạm Tiến Nông: N: 31%; CaO: 1,5%; MgO: 1,0%; S: 6,5%; Zn, Cu, B, Fe, Mn, Mo

3.3. Một số lưu ý khi sử dụng trung, vi lượng trong sản xuất phân bón.

– Đối với dung dịch thủy canh, phân bón lá, phân bón tưới nhỏ giọt, bắt buộc phải sử dụng vi lượng dạng chelate hoặc được hoạt hóa theo công nghệ chelate, sử dụng các nguyên liệu có độ tinh khiết cao, tan hoàn toàn trong nước.

– Đối với phân bón gốc thông thường nên sử dụng các loại trung vi lượng dạng vô cơ có sẵn trong tự nhiên (Quặng Secpentin, CaCO3, Dolomite…), các vi lượng gốc vô cơ (CaCl 2, MgSO 4.H 2O, CuSO 5.H 2O, ZnSO 4.H 2O, MnSO 4.H 2O…), không nên sử dụng sắt gốc vô cơ (vì Fe 2+ rất oxy hóa thành Fe 3+, sau đó kết tủa).

– Vì hiệu quả của trung, vi lượng dạng chelate hiệu quả gấp hằng chục đến hàng trăm lần vi lượng dạng vô cơ nên cũng chỉ cần lượng dùng nhỏ tương đương để đảm bảo hiệu quả và giá thành thành phẩm sản xuất (VD: NPK + TE vô cơ có hàm lượng 100ppm Zn thì NPK + TE chelate chỉ cần 10ppm Zn).

– Vì sử dụng lượng rất nhỏ (vài trăm gam – vài kg/tấn thành phẩm phân bón gốc) nên đòi hỏi trung, vi lượng bổ sung phải được phối trộn đều nhiều cấp hoặc hòa tan trong nước trong quá trình tạo hạt để đảm bảo độ đồng đều của thành phẩm. Đối với các sản phẩm Đạm Urea vi lượng, Siêu đạm, Phân bón công nghệ tháp cao, công nghệ hơi nước, công nghệ hóa lỏng Urea… chúng ta nên bổ sung trực tiếp vào dịch Urea trước khi tạo hạt hoặc bọc vi lượng bên ngoài sau khi tạo hạt. Nhiệt độ dung dịch chứa trung, vi lượng – nhiệt độ sấy sản phẩm không nên vượt quá 160oC.

Để tính toán công thức phân bón NPK có chứa vi lượng (NPK + TE), bạn đọc có thể tham khảo bài viết Công nghệ sản xuất phân bón hỗn hợp NPK: Phần 3 – Cách tính công thức hoặc liên hệ với Admin để được trợ giúp.

Tác Dụng Của Phân Bón Hữu Cơ Vi Sinh Đối Với Cây Trồng

Phân bón hữu cơ là một trong những vấn đề thiết yếu nhất cho nền nông nghiệp nước ta hiện nay, đặc biệt trong thời hội nhập thì vấn đề đảm bảo số lượng, chất lượng nông sản luôn được quan tâm hàng đầu. Tác dụng, hiệu quả và cách sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh cho cây trồng sẽ đem đến chất lượng và sự an toàn, bền vững cho nông sản, đạt chuẩn xuất khẩu cũng như nâng tầm thương hiệu nông sản Việt trên thị trường. Những loại phân hữu cơ vi sinh tự nhiên như phân trùn quế luôn là lựa chọn hàng đầu của những trang trại hữu cơ, vườn rau quả VIETGAP, bởi khả năng cải tạo đất cũng như tăng phẩm chất nông sản, đảm bảo chất lượng xuất khẩu cũng như sức khỏe người trồng, người tiêu dùng.

Tác hại của việc lạm dụng phân bón hóa học

Nền nông nghiệp nước ta hiện nay có một thực tế phải được nhìn nhận, là nếu sử dụng phân bón vô cơ không đúng cách và lạm dụng thì đất sẽ không được bổ sung thêm hàm lượng hữu cơ gây nên chai sạn đất. Dinh dưỡng sẽ bị suy giảm dẫn tới năng suất của cây trồng cũng suy giảm theo, và khi lạm dụng phân hóa học sẽ gây nên các dịch bệnh trên các giống cây trồng rất khó có phương pháp điều trị đặc hiệu và gây ô nhiễm môi trường. Không phải đến bây giờ chúng ta mới biết về mặt trái của phân hóa học đến môi trường, tuy nhiên việc lạm dụng quá mức do mong muốn tăng năng suất đã kéo theo rất nhiều hệ lụy, làm suy giảm tài nguyên và gây tác hại không nhỏ cho nông nghiệp.

Lợi ích của phân hữu cơ vi sinh

Chất hữu cơ hay phân hữu cơ là 1 nền tảng của đất. Các nhà khoa học đánh giá 1 loại đất tốt thì buộc phải giàu hữu cơ. Chất hữu cơ và phân hữu cơ đem đến nhiều lợi ích cho đất và cây trồng. Một là cung cấp đầy đủ dưỡng chất cần thiết cho cây trồng. Trong phân hữu cơ có đầy đủ dưỡng chất, tuy hàm lượng không nhiều nhưng cây trồng có thể hấp thụ hoàn toàn trong thời gian dài, bền vững. Thứ hai là phân hữu cơ giúp giữ ẩm, giữ phân, giữ nước, và giúp cho bộ rễ phát triển tốt, bền lâu và giúp cho đất xốp. Đặc biệt phân hữu cơ giúp cho hệ vi sinh vật trong đất phát triển mạnh mẽ. Một loại đất tốt nếu không có vi sinh vật hoạt động trong đó thì lâu ngày chắc chắn cũng sẽ bị hủy diệt. Do đó chúng tôi khuyến khích bà con nông dân nên sử dụng phân hữu cơ để giúp cho đất ngày càng tốt lên. Đất tốt lên theo cả mặt hóa học, sinh học lẫn lý học. Đây là 1 nền tảng cơ bản để cây trồng phát triển bền vững.

Những loại phân hữu cơ vi sinh như phân trùn quế, ngoài việc giúp kích thích hệ vi sinh vật trong đất, còn cung cấp thêm 1 lượng vi sinh cho đất. Hệ vi sinh vật có lợi càng dồi dào, càng đẩy lùi được những vi sinh vật bất lợi cho đất và cây trồng, giúp hạn chế được những loại bệnh do vi sinh vật có hại gây ra, những loại nấm bệnh gây hại cho rễ. Đây là tác dụng rất “lợi hại” của phân hữu cơ vi sinh mà bà con nên tận dụng.

Bạn đang xem bài viết Cơ Sở Sinh Lý Của Việc Bón Phân Cho Cây Trồng – Agriculture trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!