Cập nhật thông tin chi tiết về Cơ Sở Khoa Học Của Việc Bón Phân mới nhất trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Mối quan hệ giữa Đất – Cây trồng – Phân bón
Chúng ta biết quá trình hình thành đất không thể thiếu yếu tố sinh học, mà vai trò của thực vật đã đóng góp không nhỏ. Ban đầu trong quá trình sinh trưởng, phát triển các loài thực vật hút nước và chất khoáng từ mẫu chất (sản phẩm trung gian giữa đá mẹ và đất), kết hợp quá trình quang hợp để tạo thành các chất hữu cơ trong cơ thể thực vật. Sau khi chết, xác của chúng bị phân hủy, trả lại cho môi trường các chất khoáng đã lấy đi từ mẫu chất và bổ sung thêm cacbon, nitơ, oxy… làm tăng thành phần chất hữu cơ trong mẫu chất. Sự tích luỹ chất hữu cơ làm cho mẫu chất xuất hiện độ phì và chuyển thành đất. Chu kỳ Đất – Cây trồng – Đất diễn ra liên tục trong tự nhiên làm cho độ phì đất tăng dần và trở nên ngày một thành thục. Như vậy, có thể nói mối quan hệ Đất – Cây trồng là mối quan hệ cộng sinh. Đất đai cung cấp dinh dưỡng khoáng cho thực vật và thực vật cung cấp chất hữu cơ (nguồn năng lượng sống) cho đất, giúp mọi hoạt động sống trong đất diễn ra một cách tích cực.
Trong thực tế người ta thấy: 1/ Tuổi rừng càng già đất càng màu mỡ, tại sao? Vì tuổi rừng càng già quá trình tích lũy sinh học càng cao; 2/ Dưới các kiểu rừng khác nhau các loại đất cũng có độ phì khác nhau, tại sao? Vì các kiểu rừng khác nhau quá trình tích lũy sinh học khác nhau. Ví dụ: đất dưới rừng tre, nứa hoặc trảng cỏ có độ phì thấp hơn đất dưới rừng cây lá rộng; 3/ Năng suất và chất lượng cây trồng giảm dần sau khi chuyển từ đất rừng tự nhiên sang đất nông nghiệp, tại sao? Vì khi chuyển từ đất rừng tự nhiên sang đất nông nghiệp quá trình tích lũy sinh học tại chỗ giảm.
Như vậy, trong sản xuất nông nghiệp ngày nay mối quan hệ cộng sinh Đất – Cây trồng trong tự nhiên bị phá vỡ bởi mục đích kinh tế của con người thông qua việc thu hái nông sản. Việc thu hái nông sản của con người đã làm giảm đi quá trình tích lũy sinh học tại chỗ và làm các chất dinh dưỡng khoáng trong đất cũng mất dần theo, dẫn đến đất đai ngày một mất đi độ màu mỡ. Vì vậy, mối quan hệ Đất – Cây trồng trong tự nhiên đã trở thành mối quan hệ Đất – Cây trồng – Phân bón. Mối quan hệ này mở đường cho các định luật về phân bón và dinh dưỡng cây trồng phát triển. Thực tế đã chứng minh nhiều vùng đất trù phú đã bị suy thoái do quá trình canh tác nông nghiệp quá mức.
Bón phân là để bù đắp lượng dinh dưỡng khoáng cho đất giúp cây trồng hút được nhiều chất dinh dưỡng hơn, phát triển tốt hơn, bộ rễ cây trồng ăn sâu hơn, các chất dinh dưỡng từ tầng sâu được huy động nhiều hơn, sinh khối và sinh khối rễ được tạo thành nhiều hơn. Việc để lại một khối lượng rễ cây và quá trình tích lũy sinh học khác lớn hơn trong đất hàng năm, giúp cung cấp nhiều mùn cho đất, làm đất tơi xốp hơn, dung tích hấp thu và độ hoãn sung của đất tốt hơn. Nhà nông có thể tiết kiệm phân bón hơn không phải chỉ vì chất dinh dưỡng từ chất hữu cơ được trả lại đất mà còn vì hệ số sử dụng phân bón được tăng lên.
Bón phân là bón cho cây nhưng thông qua đất, nên khi bón phân phải hiểu đầy đủ tính chất đất đai. Đất có thành phần cơ giới nặng (nhiều sét), hoặc nhẹ (nhiều cát) đều phải được ưu tiên bón phân hữu cơ. Bón phân hữu cơ cho đất có thành phần cơ giới nặng thì vùi nông, còn cho đất có thành phần cơ giới nhẹ thì phải vùi sâu và đất nặng thì có thể bón nhiều, bón tập trung, trong khi đất nhẹ phải bón ít một, bón rải làm nhiều lần và bón sát yêu cầu của cây.
Bón phân cho cây nên phải bón theo nhu cầu của cây. Cây trồng có loại cần nhiều đạm (cây lấy lá), có loại cần nhiều kali (cây lấy củ, cây ăn quả, cây lấy đường). Thóc giống được bón nhiều lân thì hạt sáng, chất lượng hạt giống tốt, mạ gieo bằng hạt giống có nhiều lân sức sống khỏe hơn, năng suất cao hơn. Những cây lấy dầu, cây họ đậu, cây gia vị lại cần được cung cấp đủ lưu huỳnh.
Không chỉ yêu cầu chung khác nhau mà từng giai đoạn sinh trưởng của mỗi cây cũng có yêu cầu khác nhau. Giai đoạn đầu cây cần nhiều lân và đạm, giai đoạn sau cây lại cần nhiều đạm, kali và các nguyên tố vi lượng…
Giai đoạn nào cũng không được bón quá mức nhu cầu của cây và giai đoạn nào cũng phải cung cấp chất dinh dưỡng một cách cân đối.
Bón phân cho cây, mà sự phát triển của cây lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện thời tiết, khí hậu nên có thể phải điều chỉnh việc bón phân cho phù hợp với tình hình thời tiết. Cây gặp gió mùa đông bắc ngừng phát triển thì không được bón đạm vì có thể làm giảm tính chịu rét của cây, nên có thể định bón mà phải lùi lại và lại có khi phải bón sớm hơn do cây phát triển sớm. Trên đất dốc, việc bón phân phải dựa vào điều kiện thời tiết (mưa gió) đôi khi phải đợi trời quang mây tạnh mới bón để tránh rửa trôi phân bón, nhưng đôi khi cũng phải chờ những giọt mưa để hòa tan phân giúp đưa phân tới tầng sâu của rễ được thuận lợi hơn.
Nên khi sử dụng phân bón phải hiểu nguyên lý chung để vận dụng sát, đúng cho từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, trong công việc đồng áng đòi hỏi phải được theo dõi, ghi chép và rút kinh nghiệm thường xuyên.
Tóm lại Trong sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng phân bón phải hướng tới tối đa hóa hiệu quả sử dụng của phân bón, phải làm cho cây trồng có thể hấp thu được nhiều nhất lượng dinh dưỡng từ phân bón. Việc xác định đúng loại dinh dưỡng cây cần là điều được đề cập trước tiên, tiếp theo là lượng cây cần, tiếp nữa là thời điểm cây cần cung cấp và một điều không thể không đề cập đó là bón thế nào để có thể đảm bảo thuận lợi nhất cho việc hấp thụ dinh dưỡng của cây và giảm tối đa sự thất thoát dinh dưỡng của phân.
Do vậy, có 4 nguyên tắc cần phải áp dụng khi sử dụng phân bón: 1/Bón đúng loại; 2/Bón đúng lượng; 3/Bón đúng thời điểm; 4/Bón đúng cách.
1. Đúng loại: là sử dụng đúng loại phân mà cây cần, khi cây cần đạm thì không thể dùng lân hay kali để thay thế, hoặc khi cây cần kali cũng không thể dùng đạm hay lân để thay thế và ngược lại. Đất chua phèn không nên sử dụng phân bón có chứa lưu huỳnh và có tính chua cao, đất kiềm lại nên sử dụng phân bón có tính chua. Vì vậy, cần phải bón đúng loại phân cây cần, việc bón không đúng loại không những không giúp cây trồng phát triển mà còn gây hại cho cây.
2. Đúng lượng: là bón đúng lượng phân bón cây cần cho quá trình sinh trưởng, phát triển theo mỗi giai đoạn. Mỗi một thời kỳ sinh trưởng, phát triển khác nhau cây cần một lượng dinh dưỡng khác nhau cho mỗi yếu tố. Do vậy, việc bón đúng lượng còn được gắn thêm với đúng tỷ lệ. Không thể dùng lượng và tỷ lệ phân bón lót để bón thúc và ngược lại. Việc xác định đúng lượng và tỷ lệ phân bón cho cây phụ thuộc vào nồng độ chất khoáng tối thích mà cây hấp thụ cũng như tổng sinh khối của cây được hình thành thời kỳ đó trên nền tảng hiệu suất sử dụng của phân.
3. Đúng lúc: quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng được chia làm 2 thời kỳ. Thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng và thời kỳ sinh trưởng sinh thực và ở mỗi thời kỳ lại được chia làm 2 hay nhiêu hơn các giai đoạn. Tùy thuộc vào mỗi loại cây trồng mà có yêu cầu chế độ dinh dưỡng khác nhau cho mỗi giai đoạn. Không thể bón thúc hoa mà lại để có trái mới bón hay không thể bón thúc đẻ nhánh cho lúa mà lại để đến khi làm đòng mới bón … Vì vậy, cần phải bón đúng lúc, đúng thời điểm thì việc bón đúng loại, đúng lượng mới có ý nghĩa và mới phát huy được hiệu quả cũng như ý nghĩa của việc bón phân.
4. Đúng cách: là bón như thế nào để cây trồng có thể hấp thu dinh dưỡng được hiệu quả nhất, hạn chế tối đa sự thất thoát phân bón. Đất dốc, cây hàng năm nên nặng bón lót. Đất cát, cát pha, thịt nhẹ bón phân nên chia làm nhiều lần, đất thịt và đất sét có thể chia ít lần hơn. Không nên bón sát gốc cây, nên bón cách gốc 2/3 bán kính vùng rễ. Bón phân kết hợp xới xáo, làm cỏ và vùi lấp để hạn chế bay hơi (mất đạm) và rửa trôi dinh dưỡng. Khi đã xác định được đúng phân, đúng liều lượng và đúng thời điểm bón thì việc bón không đúng cách sẽ làm giảm đáng kể hiệu suất sử dụng của phân.
Tuy nhiên, không phải tất cả nhà nông chúng ta có thể dễ dàng áp dụng được 4 đúng trong sử dụng phân bón. Bởi để có cơ sở thực hiện 4 đúng, cần có 4 phải: 1/Phải hiểu cây, để biết nhu cầu cây cần gì, cần bao nhiêu; 2/Phải hiểu đất, để biết khả năng cung cấp của đất; 3/Phải hiểu phân, để biết khả năng đáp ứng của phân; 4/Phải có trang thiết bị máy móc, để hỗ trợ quá trình định lượng và đây là hạn chế mà không phải ai trong số nhà nông chúng ta cũng có thể đáp ứng được. Do vậy, để có thể giúp nhà nông sử dụng phân bón một cách hiệu quả Tiên Nông đặc biệt quan tâm nghiên cứu và phát triển sản phẩm phân bón theo hướng chuyên dùng giúp nhà nông có thể sử dụng dễ dàng và hiệu quả hơn. Cơ sở khoa học của sản phẩm phân bón chuyên dùng đó là các định luật về sử dụng phân bón
1. Định luật trả lại
Tổng kết các kết quả thực nghiệm về dinh dưỡng khoáng của cây trồng vào cuối thế kỷ XIX các nhà khoa học Pháp (Boussingault, Deheran) và Đức (Liebig), những người được xem là các nhà tiên phong về hóa học nông nghiệp đã phát biểu định luật:
Để cho đất khỏi bị kiệt quệ, cần trả lại cho đất tất cả những nguyên tố cây trồng lấy đi theo sản phẩm thu hoạch.
Định luật là căn cứ để xây dựng kế hoạch phân bón theo kế hoạch năng suất nếu tính đầy đủ đến hệ số sử dụng phân bón của cây. Định luật mở đường cho phân hóa học phát triển khiến cho năng suất tăng lên rất nhanh.
Song định luật này chưa đầy đủ, vì trong đất luôn có quá trình chuyển hóa về lý, hóa, sinh phong phú và phức tạp. Nếu chỉ đơn thuần trả lại các chất khoáng bị cây trồng lấy đi là chưa đủ, mà còn phải chú ý đến quá trình khoáng hóa chất hữu cơ và quá trình mùn hóa trong đất sau canh tác. Ngoài việc duy trì chất khoáng còn phải duy trì hàm lượng mùn cho đất. Nếu các quá trình lý, hóa, sinh không được cải thiện thông qua việc duy trì mùn cho đất một cách hợp lý, thì dù có trả lại đầy đủ chất khoáng cây trồng cũng khó sử dụng một cách có hiệu quả.
Định luật cần được mở rộng: Ngoài việc trả lại những yếu tố do cây trồng lấy đi còn phải trả lại lượng chất dinh dưỡng bị rửa trôi, bay hơi và cả các chất mất đi do hậu quả của quá trình canh tác.
2. Định luật yếu tố hạn chế thiếu
Việc thiếu một nguyên tố dinh dưỡng dễ tiêu đối với cây trồng trong đất (yếu tố hạn chế thiếu) hạn chế hiệu lực của các nguyên tố khác và do vậy làm giảm năng suất cây trồng.
Trong thực tế, khi hàm lượng một nguyên tố nào đó trong đất vượt quá nhu cầu của cây, không cân đối với các nguyên tố khác thì chính nguyên tố đó lại hạn chế tác dụng của các nguyên tố khác. Do vậy, định luật yếu tố hạn chế thiếu được mở rộng thành định luật về yếu tố hạn chế như sau:
Đất thiếu hay thừa một nguyên tố dinh dưỡng dễ tiêu nào đó so với yêu cầu của cây cũng đều làm giảm hiệu quả của các nguyên tố khác và do đó làm giảm năng suất của cây trồng.
Việc xác định một tỷ lệ cân đối các chất dinh dưỡng cho cây là nền tẳng làm gia tăng hiệu suất sử dụng phân bón Tiến Nông.
3. Định luật tương tác giữa các nguyên tố dinh dưỡng và việc bón phân cân đối
Để phát triển được bình thường, cây trồng cần có một tỷ lệ xác định các nguyên tố cần thiết cho quá trình sống. Các công trình nghiên cứu về sinh lý thực vật đã chứng minh, khi tỷ lệ các nguyên tố dinh dưỡng đạt mức cân bằng tối thích thì cây trồng có năng suất cao nhất. Cây trồng hút dinh dưỡng từ đất cho nên mọi sự mất cân đối trong đất sẽ phản ảnh vào nồng độ các chất khoáng trong dịch bào của cây.
Do mối tương tác giữa các nguyên tố dinh dưỡng, việc cung cấp nguyên tố này sẽ ảnh hưởng đến một hay một số nguyên tố khác. Khi bón nguyên tố này làm cây hút các nguyên tố khác nhiều lên và năng suất tăng, đó là mối tương tác dương hay giữa các nguyên tố đó có mối quan hệ tương hỗ. Ngược lại khi việc cung cấp nguyên tố này làm cho cây hút nguyên tố kia ít đi và làm năng suất giảm xuống người ta gọi đó là mối tương tác âm hay giữa hai nguyên tố đó có mối quan hệ đối kháng.
Thí dụ, mối tương tác lân-kẽm (P-Zn), Takkar và ctv (1976) cho thấy khi tăng lượng lân bón cho ngô lên quá 44 kg/ha thì rễ, thân, lá và năng suất hạt của ngô đều giảm một cách đáng kể. Người ta nói giữa lân và kẽm có mối tương tác đối kháng. Muốn khắc phục hiệu ứng này thì phải bón kẽm cho ngô. Tiwan và Pathak , 1978 thấy ở lúa cũng có hiện tượng tương tự.
Người ta đưa ra những lý do sau đây để giải thích việc thiếu kẽm do lân: (1) lân làm giảm kẽm dễ tiêu trong đất; (2) lân làm giảm việc hút kẽm của bộ rễ do vậy làm chậm việc chuyển kẽm từ rễ lên thân; (3) xuất hiện hiệu ứng hòa loãng đối với kẽm trên ngọn cây do lân làm tăng cường sinh trưởng của cây; (4) P-Zn không cân bằng làm trao đổi chất trong cây bị rối loạn; (5) lân làm nhiễu loạn chức năng của kẽm ( Olssen, 1972 và Katyal, 1992).
Sản phẩm phân bón chuyên dùng, hay phân bón hỗn hợp NPKSi nói chung của Tiến Nông, khi sản xuất đều được tính đến mối quan hệ tương hỗ và sự đối kháng của các chất dinh dưỡng có đề cập đến đặc điểm chung của mỗi nhóm đất. Do vậy, phân bón Tiến Nông luôn cho hiệu suất sử dụng cao.
4. Định luật bội thu không hẳn tỷ lệ thuận với lượng phân bón cho cây (Mitscherlich)
Bội thu không hẳn tỉ lệ thuận với việc bón thêm phân bón. Khi tăng lượng phân bón lên gấp đôi, bội thu không tăng gấp đôi, mà tỷ suất lợi nhuận theo phân bón của nhà nông giảm dần. Đây chính là cơ sở khoa học của việc hướng dẫn liều lượng bón phân của mỗi sản phẩm phân bón Tiến Nông cho cây trồng.
Ví dụ: Trong một thí nghiệm phân bón cho ngô, khi tăng dần lượng phân bón và ghi lại năng suất ở mỗi mức bón tương ứng, thì thấy như sau:
– Công thức không bón, năng suất được 40,9 tạ/ha
– Công thức bón 40 N/ha năng suất đạt 56,5 tạ/ha, tăng 15,6 tạ/ha so với không bón
– Công thức bón 80 N/ha năng suất đạt 70,8 tạ/ha, tăng 29,9 tạ/ha so với không bón
– Công thức bón 120 N/ha năng suất đạt 76,2 tạ/ha, tăng 35,3 tạ/ha so với không bón
– Công thức bón 160 N/ha năng suất đạt 79,9 tạ/ha, tăng 39,0 tạ/ha so với không bón
+ Nếu tính hiệu suất chung:
– Bón mức 40 kg N/ha hiệu suất đạm bón là 39 kg ngô/1 kg đạm bón
– Bón mức 80 kg N/ha hiệu suất đạm bón là 37,37 kg ngô/1 kg N bón
– Bón mức 120 kg N/ha hiệu suất đạm bón là 29,41 kg ngô/1 kg N bón
– Bón mức 160 kg N/ha hiệu suất đạm bón là 24,37 kg ngô /1 kg N bón
+ Nếu tính hiệu suất phân khoảng từng 40 kg N bón một thì thấy:
– 40 kgN đầu tiên hiệu suất là 39 kg ngô/1 kg N bón
– 40 kg N thứ hai hiệu suất là 35,76 kg ngô/1 kg N bón
– 40 kg N thứ ba hiệu suất là 13,50 kg ngô/1 kg N bón
– 40 kg N thứ tư hiệu suất là 9,25 kg ngô/1 kg N bón
Rõ ràng, khi tăng lượng bón phân thì năng suất tăng, nhưng hiệu xuất phân bón giảm và trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa, việc đầu tư phân bón để có năng suất cao không phải là chỉ tiêu quan tâm hàng đầu, mà chính là chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên mỗi đồng phân bón đầu tư mới thực sự cần thiết phải quan tâm.
Phân bón Tiên Nông luôn hướng tới việc tối đa hóa lợi nhuận cho người trồng trọt và đó là sự khác biệt so với các sản phẩm phân bón khác
Bón phân là bón cho cây nhưng thông qua đất, nên cần thiết phải hiểu cơ bản về đất.
Cơ Sở Sinh Lý Của Việc Bón Phân Cho Cây Trồng – Agriculture
CƠ SỞ SINH LÝ CỦA VIỆC BÓN PHÂN CHO CÂY TRỒNG
Posted On September 29, 2017 at 6:06 am by lovetadmin / Comments Off on CƠ SỞ SINH LÝ CỦA VIỆC BÓN PHÂN CHO CÂY TRỒNG
1. Bù đắp lại phần dinh dưỡng đã mất theo thu hoạch
Dinh dưỡng có trong đất được cây trồng sử dụng, một phần được trả lại khi lá cành rụng xuống. Đối với các cây trồng nông sản, sản phẩm thu hoạch đã lấy đi phần lớn dinh dưỡng có trong đất. Tùy thuộc vào từng loại cây mà mức độ dinh dưỡng bị mất đi cũng khác nhau: đối với cây rau và cây lấy củ dinh dưỡng mất đi nhiều hơn so với các dòng cây lấy hạt.
Để ngăn chặn sự nghèo kiệt của đất và để có thu hoạch cao cần phải bón phân. phương pháp bón phân dựa trên quy luật tối thiểu ở trong đất. Có nghĩa các dòng phân bón bổ sung dinh dưỡng trong đất giúp từng thành phần dinh dưỡng trong đất luôn lớn hơn mức tối thiểu. Thành phần dinh dưỡng trong đất lớn hơn mức tối thiểu giúp cây trồng có thu hoạch cao và ổn định mà không làm giảm độ phì trong đất, Thông thường sử dụng các dòng phân NPK với nền sinh hóa kết hợp hệ thống canh tác tiên tiến.
2. Dựa trên đặc điểm sinh học của cây trồng
Mỗi giống cây ở từng giai đoạn sinh trưởng phát triển nhu cầu về dinh dưỡng là không giống nhau. Phụ thuộc vào 3 yếu tố
Đặc điểm di truyền
Đặc điểm di truyền quyết định đặc điể trao đổi chất theo mức đọ phát triển của từng cơ quan, trong từng giai đoạn phát triển của các cá thể. Cây trồng lấy lá cần nhiều nguyên tố vi lượng B, Zn… Cây trồng lấy củ cần nhiều Kali và lân. Họ nhà đậu thường cần photpho hơn nito. Các loài rau ăn lá nói chung cần nhiều đạm, tuy nhiên khả năng hấp thu của các laoif là khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các thể.
Theo đặc tính của các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây
Vào từng giai đoạn khác nhau nhu cầu về dinh dưỡng (Liều lượng và thành phần tỷ lệ giữa các yếu tố dinh dưỡng) là khác nhau. Cây ngô nếu thiếu photpho trong 15 ngày đầu tiên không có khả năng ra hoa đậu trái. Thông thường cây con cũng cần một lượng tương đối photpho trong pha sinh trưởng. Trước thời ky ra hoa đậu trái nhu cầu về dinh dưỡng của cây trồng luôn ở mức cao do nhu cầu tăng sinh về thể tích và sinh khối nên cần cung cấp đầy đủ dinh dưỡng.
Theo (Hirano, 1987) bón phân cho lua lúc trỗ chứa nhiều nito giúp cây tăng khả năng ra bông hạt lúa ít bị lép. Đối với các dòng cây lấy củ như khoai lang, khoai tây… thời gian đầu nên bón nhiều đạm để bộ lá phát triển. Thời kỳ tạo củ tăng lượng Kali giảm lượng Nito. Đối với ngô bón nito tốt nhất từ 6 lá trở đi, giai đoạn đầu nên sư dụng nhiều lân. tạo hạt nhiều nitơ và kali.
Theo đặc điểm đất đai
Mỗi loại đất khác nhau có đặc điểm thổ nhưỡng khác nhau, nên hàm lượng dinh dưỡng trong đất cũng khác nhau. Tất cả đều ảnh hưởng đến quá trình hấp thu, vận chuyển các chất dinh dưỡng trong cây. Để đạt năng xuất cao chúng ta cần phân tích hàm lượng dinh dưỡng tích lũy trong cây trông tương ứng, xác định hệ số sử dụng phân bón.
Theo đào thế tuấn (1969) để cây trồng đạt năng xuất 5-6 tấn lúa trên 1 ha cần 120 Kg nito: 60 Kg Lân : 60 Kg Kali
Nhìn chung:
Việc bón phân hợp lý phải dựa trên nhu cầu dinh dưỡng của từng loại cây vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển giúp đảm bảo việc hấp thu tốt nhất mang lại hiệu quả cao nhất. Trong việc bón phân yếu tố nhiệt độ và độ ẩm giữ vai trò chủ đạo quyết định hiệu quả.
Tư vấn kĩ thuật:
0933.067.033
Share on Facebook
Share
Share on Twitter
Tweet
Share on Pinterest
Share
Mảnh Ghép Nông Nghiệp Hữu Cơ — Sở Khoa Học Và Công Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh
Điểm đặc biệt của SEA chính là việc SEA không trực tiếp cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng như các loại phân bón truyền thống mà SEA tác động trực tiếp vào môi trường đất, giúp cải thiện các thông số hóa lý của đất, gia tăng các loài vi sinh vật có lợi, giúp môi trường đất trở nên thuận lợi cho các loại cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Không giống các loại phân bón dinh dưỡng có nguồn gốc vô cơ, SEA là phân bón chỉ chứa các hợp chất thiên nhiên, nguồn gốc hoàn toàn từ các loại cây cỏ trong nước, có tác dụng cải tạo môi trường đất, giúp đất tự sản sinh ra dinh dưỡng tự nhiên bền vững, cung cấp môi trường sống lý tưởng cho cây trồng, từ đó cây trở nên khỏe mạnh hơn, chống chịu sâu bệnh bằng chính hệ miễn dịch của cây trồng.
SEA mang những đặc điểm nổi bật sau:
Là phân bón nhưng không chứa NPK, không kich thích sinh trưởng ( GA , IAA .. ), không có vi sinh.
Cải tạo môi trường đất và làm cây phát triển tốt, trong khi các loại phân khác chỉ nhằm làm cây phát triển nhanh và làm đất bị chai.
Làm cho số lượng sinh vật đất gia tăng, chưa có đến có, từ ít đến nhiều, đặc biệt làm phát sinh nhiều trùn đất. Hiệu quả đã được thực nghiệm tại Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Miền Nam.
Là phân bón nhưng lại có tác động đến việc giảm sâu bệnh và không phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật độc hại.
Khi sử dụng SEA, giảm sử dụng phân bón hóa học nhưng năng suất không giảm mà ngày càng tăng một cách bền vững.
SEA ở dạng lỏng, có thể dễ dàng hòa tan vào nước và phun xịt vào đất nên rất dễ sử dụng, thao thác lao động nhẹ nhàng, lượng sử dụng ít nhưng hiệu quả cao. Càng sử dụng lâu dài, càng làm cho môi trường đất trở nên màu mỡ, khỏe mạnh.
Có nguồn gốc hoàn toàn từ thảo mộc, cây cỏ thiên nhiên trong nước. Do đó, nếu sử dụng hoàn toàn SEA cho đất và cây trồng, nông sản đầu ra sẽ không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Hoàn toàn không gây độc hại cho cả người nông dân sử dụng lẫn người tiêu dùng nông sản vì thành phần là những chiết xuất từ thảo mộc trong nước.
Do các tác động đã nêu ở các phần trên, SEA dù có sử dụng bón vào đất với lượng rất ít so với các loại phân bón khác (bằng 1/10 – 1/20) và thời gian sử dụng trong đất chỉ có 1 lần cho 3-4 tháng nhưng hiệu quả đem lại rất to lớn. Đây là một điều có lợi cho nhà nông: vừa tiết kiệm tiền, thời gian, công sức mang vác, không độc hại cho người, không gây ô nhiễm đất và nguồn nước – nhưng lại mang đến hiệu quả cao.
Phân Bón Hóa Học Và Phân Bón Hữu Cơ
Phân bón hóa học (còn gọi là phân vô cơ, phân tổng hợp hoặc phân nhân tạo) được định nghĩa là bất cứ hoá chất vô cơ nào có nguồn gốc được tổng hợp hoàn toàn hoặc tổng hợp một phần, được thêm vào đất để duy trì sự phát triển của cây. Phân bón hóa học được sản xuất tổng hợp từ hóa chất vô cơ.
Trên thực tế, phân hóa học đã được tinh chế để chiết xuất chất dinh dưỡng và liên kết chúng theo tỷ lệ cụ thể với các chất hóa học khác. Những sản phẩm này có thể được làm từ các sản phẩm dầu mỏ, đá, hoặc thậm chí các nguồn hữu cơ. Một số hóa chất có thể xuất hiện tự nhiên, nhưng sự khác biệt là các chất dinh dưỡng trong phân bón hóa học được tinh chế về trạng thái tinh khiết và tước bỏ các chất kiểm soát sự sẵn có và phân hủy của chúng hiếm khi xảy ra trong tự nhiên.
Vì chúng được điều chế từ các hoá chất vô cơ một cách nhân tạo, chúng có thể chứa một số axit có hại, kìm hãm sự phát triển tự nhiên của các vi sinh vật có trong đất hữu ích cho sự phát triển của cây. Phân bón hóa học rất giàu ba chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của cây.
Một số ví dụ về phân bón hóa học là ammonium sulphate, ammonium phosphate, ammonium nitrate, urê, ammonium clorua và những hoá chất tương tự.
Phân bón hữu cơ là những chất có nguồn gốc từ xác hoặc được tạo ra bởi các sản phẩm của sinh vật. Phân hữu cơ phụ thuộc vào các vi sinh vật được tìm thấy trong đất để phá vỡ chúng và giải phóng các chất dinh dưỡng thiết yếu. Các chất dinh dưỡng từ phân hữu cơ rất giàu phốt pho, nitơ và kali, nhưng với tỷ lệ không đồng đều.
Ví dụ về phân bón hữu cơ là bột hạt bông, bột máu, nhũ tương cá và phân bùn và nước thải. Có hai loại phân hữu cơ: thứ nhất là loại tổng hợp, là hợp chất hữu cơ được sản xuất nhân tạo (ví dụ: Urê), một loại phân hữu cơ thông thường, loại còn lại là phân hữu cơ tự nhiên vì 100% thành phần được sử dụng để tạo ra phân bón hữu cơ tự nhiên điển hình đến từ thiên nhiên (ví dụ, chiết xuất cá, rong biển và phân chuồng, guano và vật liệu phân trộn).
Bảng so sánh giữa phân bón hóa học và phân bón hữu cơ
Giá cảPhân bón hóa học rẻ hơn vì chúng bao gồm nhiều chất dinh dưỡng hơn mỗi pound trọng lượng.
Phân bón hữu cơ có thể rẻ hơn mỗi pound nhưng chi phí đắt hơn vì cần nhiều hơn cho cùng một mức độ dinh dưỡng.
Phân hữu cơ thường đắt hơn nhiều so với phân hóa học, chủ yếu là do phân hóa học có hàm lượng chất dinh dưỡng tập trung trên trọng lượng sản phẩm nhiều hơn so với phân hữu cơ.
Người ta cần vài pound phân hữu cơ để cung cấp cùng một mức dinh dưỡng cho đất mà một pound phân bón hóa học cung cấp, và chi phí phân bón hữu cơ cao hơn là một trong những lý do lớn nhất khiến sản phẩm phân hữu cơ đắt hơn phân phi hữu cơ. (Lý do lớn khác là năng suất phân hữu cơ thấp hơn).
Bạn có thể tạo ra nhiều loại phân bón hữu cơ cho riêng mình, một khi hoạt động, bao gồm thời gian và các tài nguyên khác, phân bón hữu cơ tự chế thường đắt hơn hơn phân bón mua tại cửa hàng.
Cung cấp chất dinh dưỡng
Phân bón được sử dụng để cung cấp chất dinh dưỡng cho cây, giúp cho cây tăng trưởng tốt. Thiếu dinh dưỡng trong đất là vấn đề phổ biến ở các chủ vườn. Một trong những lợi thế khác biệt của phân bón hóa học so với phân hữu cơ là phân hóa học rất phong phú chất dinh dưỡng và chứa cả ba chất dinh dưỡng thiết yếu: nitơ, phốt pho và kali. Mặt khác, phân bón hữu cơ có thể giàu một trong ba chất dinh dưỡng, hoặc có thể có mức độ thấp của cả ba chất dinh dưỡng.
Một đặc điểm của phân bón hữu cơ là khả năng giải phóng chậm của chúng. Khả năng giải phóng chậm của phân hữu cơ có cả ưu điểm và nhược điểm: Giải phóng chậm có nghĩa là ít có nguy cơ bón phân quá mức. Nhưng đôi khi phân bón hữu cơ giải phóng chậm này không thể đáp ứng nhu cầu cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết, bất cứ khi nào cần. Trái ngược với phân bón hữu cơ, phân bón hóa học luôn có mặt để cung cấp dinh dưỡng ngay lập tức cho cây trồng nếu có nhu cầu.
Một trong những nhược điểm chính của phân bón hóa học, trái ngược với phân hữu cơ là một số phân bón hóa học có hàm lượng axit cao như axit sulfuric và axit hydrochloric. Hàm lượng axit cao này dẫn đến việc tiêu diệt vi khuẩn cố định đạm, rất hữu ích trong việc cung cấp nitơ cho cây trồng. Ngược lại, phân hữu cơ hỗ trợ sự phát triển của vi khuẩn cố định đạm ..
Phân bón hóa học luôn có tổng NPK cao (nitơ: phốt pho: kali), từ 20 đến 60% hoặc hơn. Tổng NPK cho hỗn hợp phân bón hữu cơ sẽ luôn ở mức thấp, khoảng 14%.
Ưu điểm của phân bón hóa học
Vì các phân hoá học chứa các chất dinh dưỡng có sẵn cho cây ngay lập tức, sự cải thiện cho cây trồng thường xảy ra nhanh chóng trong vài ngày sử dụng.
Chúng được phân tích chi tiết để tạo ra tỷ lệ chính xác của các chất dinh dưỡng mà cây trồng mong muốn.
Ghi nhãn chuẩn hóa làm cho tỷ lệ và nguồn hóa chất dễ hiểu.
Phân bón hoá học không tốn kém
Nhược điểm của phân bón hóa học
Phân bón hóa học chủ yếu được làm từ các nguồn không thể tái tạo, bao gồm cả nhiên liệu hóa thạch.
Chúng ta trồng cây nhưng không làm gì để cải tạo đất. Các chất độn không thúc đẩy sự sống hoặc sức khỏe của đất, không có các quá trình phân rã cần thiết để cải thiện cấu trúc đất.
Trên thực tế, phân bón hóa học không thay thế nhiều nguyên tố vi lượng đang dần cạn kiệt do quá trình trồng cây lặp đi lặp lại, về lâu dài dẫn đến thiệt hại cho đất.
Bởi vì các chất dinh dưỡng có sẵn, có thể có nguy cơ làm đất màu mỡ quá mức. Điều này không chỉ có thể giết chết thực vật mà còn làm đảo lộn toàn bộ hệ sinh thái.
Phân bón hóa học có xu hướng chọn lọc từ cây, đòi hỏi các ứng dụng bổ sung. Áp dụng lặp đi lặp lại có thể dẫn đến sự tích tụ độc hại của các hóa chất như asen, cadmium và uranium trong đất. Những hóa chất độc hại này cuối cùng có thể xâm nhập vào trái cây và rau quả của bạn.
Sử dụng lâu dài phân bón hóa học có thể thay đổi độ pH của đất, làm đảo lộn hệ sinh thái vi sinh vật có lợi, làm tăng sâu bệnh và thậm chí góp phần giải phóng khí nhà kính.
Nhược điểm của phân bón hữu cơ
Vi sinh vật được yêu cầu để phá vỡ và giải phóng chất dinh dưỡng vào đất. Vì chúng cần hơi ấm và độ ẩm để thực hiện công việc của chúng, hiệu quả của phân bón hữu cơ bị hạn chế theo mùa. Tin tốt là các vi sinh vật này có được năng lượng từ phân hủy thực vật và động vật, vì vậy một ứng dụng của phân bón hữu cơ cung cấp một gói dinh dưỡng đầy đủ cho đất của bạn.
Phân hữu cơ bị phá vỡ theo quy tắc tự nhiên, vì vậy chúng có thể không giải phóng chất dinh dưỡng ngay khi bạn cần.
Tỷ lệ chất dinh dưỡng của phân hữu cơ thường không biết được, và tỷ lệ phần trăm của nó thường thấp hơn so với phân bón hóa học. Tuy nhiên, một số sản phẩm phân hữu cơ thực sự cao hơn phân hoá học trong một số chất dinh dưỡng.
Phân bón tự nhiên như phân động vật đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ vì đây là dạng dinh dưỡng duy nhất có thể được cung cấp cho cây trồng trước khi phân bón hoá học được phát minh ra.
Hóa chất đã được thêm vào phân bón tự nhiên sau chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, với sự tiến bộ của công nghệ, đã có sự tăng trưởng bùng nổ trong phân bón nhân tạo do năng suất được cải thiện.
Nhưng cuối cùng, đã có nhận thức đại chúng về sự thân thiện đối với môi trường sinh thái của việc sử dụng phân bón hữu cơ và nhiều người đang sử dụng các phương pháp đó một lần nữa.
Có hai cách để đo lường cách sử dụng phân bón trong một quốc gia. Một là bởi hàm lượng chất dinh dưỡng – bao nhiêu nitơ, phốt phát và kali được chứa trong phân bón.
Trong năm tài chính 2004, 23,4 triệu tấn chất dinh dưỡng đã được áp dụng ở Mỹ. Một cách khác để đo lường là tổng trọng tải – tổng số tấn cần thiết để cung cấp hàm lượng dinh dưỡng. 57,8 triệu tấn đã được sử dụng ở Hoa Kỳ. Các nhà sản xuất và sử dụng phân bón lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Brazil.
Một số báo cáo cho thấy thị trường Phân bón Hoa Kỳ là khoảng 40 tỷ đô la, trong đó phân bón hữu cơ chỉ chiếm khoảng 60 triệu đô la. Phần còn lại là các loại phân bón hoá học khác nhau.
Nếu bạn muốn sống thân thiện với thiên nhiên và cải thiện miếng đất của bạn về lâu dài, phân bón hữu cơ hiển nhiên vượt trội hơn các hóa chất.
Liệu với một ít phân bón hóa học có thể làm cho container của bạn tràn ngập hoa, cho bạn những quả cà chua lớn nhất và những bãi cỏ xanh nhất? Chắc chắn rồi. Chỉ cần chắc chắn rằng bạn hiểu những gì thực sự xảy ra với đất dưới chân bạn, bạn có thể lựa chọn loại phân bón bạn muốn một cách có ý thức.
Bạn đang xem bài viết Cơ Sở Khoa Học Của Việc Bón Phân trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!