Xem Nhiều 5/2023 #️ Brassavola – Dân Chơi Lan # Top 11 Trend | Inkndrinkmarkers.com

Xem Nhiều 5/2023 # Brassavola – Dân Chơi Lan # Top 11 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Brassavola – Dân Chơi Lan mới nhất trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Brassavola

Tông: Epidendreae Tông phụ: Laeliinae

Phân bố: Khoảng 20 loài ở Trung và Nam Mỹ và quần đảo Indies. Lan biểu sinh hoặc thạch lan, thân mộc, thân rễ, bò leo. Các giả hành hẹp, hình trụ, có 1 lá ở đỉnh. Lá hẹp, dạng terete (nhọn), lá có nhiều thịt.  Vòi hoa phát lộ hoặc là từ phần rễ ở gốc hoặc là từ đỉnh của giả hành, số lượng hoa không nhiều, hoa có màu ưa nhìn, thường là trắng hoặc xanh lục, có hương thơm về đêm. Các lá đài và cánh hoa phẳng, gần giống nhau, thẳng hoặc có hình mũi mác hẹp. Môi hoa không phân thùy, nhưng cuộn lại ở gốc, phần đầu phẳng. Khối phấn: 8.

CÁCH TRỒNG Bởi vì chúng có thói quen mọc treo lủng lẳng trên cây nên Brassavola thường trồng ghép vào cái gì đó hoặc trồng trong các giỏ với các chất trồng là những miếng gỗ nhỏ như trồng lan biểu sinh. Chúng cần một nhiệt độ vừa phải và ánh sáng mạnh. Khi cây đã trưởng thành thì cần tưới nhiều nước nhưng cần giữ khô giữa hai lần tưới. 

Brassavola acaulis Cùng loài: Brassavola lineata Hooker 

Giả hành mọc thành cụm, với chiều cao 15 cm. Lá dài 60 cm, nhiều thịt và buông thõng. Vòi hoa xuất hiện từ thân rễ, có 1-5 hoa, hoa to 8 cm, trông giống sáp, hương nồng. Các lá đài và cánh hoa màu xanh lục hoặc trắng pha xanh. Môi hoa trắng. Lan biểu sinh, trong các khu rừng ẩm ướt, nơi có lượng mưa cao, trên độ cao 1.000-1.300 m ở Costa Rica, Guatemala và Panama.

Brassavola cucullata Cùng loài: Brassavola appendicullata  Giả hành rất mảnh, dài 12 cm. Lá dài 25 cm. Vòi hoa hình thành từ gốc của lá, dài chừng 20 cm. Hoa màu trắng kem, có hương thơm, ở đầu màu xanh. Các lá đài và cánh hoa rủ xuống, dài 7 cm, rộng 7 mm. Môi hình phễu ở gốc, đôi khi có những dấu đỏ. Lan biểu sinh ở những khu rừng khô, rụng lá, trên độ cao 50-400 m ở Tây quần đảo Indies và Trung Mỹ, từ Mexico tới Venezuela.

Brassavola nodosa Lan biểu sinh hoặc thạch lan, thường sống ở những khu vực ít mưa, trên độ cao 0-500 m ở Trung Mỹ và Tây quần đảo Indies.

Brassavo la subulifolia Lan biểu sinh, mọc  trên các cây lớn trong các vườn cây, ở quần đảo Indies và Brazil.

Brassovola tuberculata Thân cây rất mảnh, dài 15 cm. Lá terete, có khe rãnh ở mặt trên, dài 25 cm. Vòi hoa ngắn, có 3-6 hoa, hoa to 7 cm, vào ban đêm tỏa hương rất thơm. Các lá đài và cánh hoa thẳng, màu vàng kem hoặc vàng chanh, đôi khi có những chấm đỏ. Môi hình ê-lip, màu trắng, họng xanh.  Lan biểu sinh hoặc thạch lan sống trong rừng ở Brazil.

Cattleya – Dân Chơi Lan

Cattleya

Tông: Epidendreae Tông phụ: Laeliinae

Phân bố: Gần như toàn bộ 50 loài và một số đáng kể loài lai trong tự nhiên đều ở Nam Mỹ, có 1 loài ở Trung Mỹ.

Là giống lan biểu sinh hoặc thạch lan, với những giả hành hướng lên trên, có hình ống, hình con quay hoặc hình cái chùy. Có 1-2 lá trên đỉnh, ít khi có 3 lá, lá dày và dai, hình thuôn. Vòi hoa không phân nhánh, xuất hiện trong một cái bao dày vỏ, ở nước ta thường gọi là lưỡi mèo, chỉ có một ít hoa, hoa to, màu rực rỡ, có hương thơm. Các lá đài đều giống nhau, cánh hoa thường rộng hơn.  

Môi thường có ba thùy, hình ống khói. Mép của thùy giữa thường gợn sóng. Trụ hoa dài. Khối phấn: 4.

Hầu hết các loài thuộc giống Cattleya đều xuất hiện với một dải màu rộng mà nhiều cây đã được chọn vẫn còn hiện hữu, chúng dùng để lai tạo với những loài cùng trong một giống hoặc lai chúng với các loài thuộc giống khác, với những giống có quan hệ như Brassia, Laelia, Rhyncholaelia và Sophronitis.

Nhiều loài lan Cattleya lai với Sophronitis lại cho ra loài lan mới có thân nhỏ hơn nhiều so với bản thân Cattleya.

Các loài thuộc Cattleya và các loài lai với chúng nằm trong số những loài đẹp nhất của các giống lan, song có lẽ ngày nay người ta ít trồng nếu so với trong quá khứ, lúc đó việc trồng Cattleya là rất phổ biến, nhất là ở Hoa Kỳ vì họ trồng chúng để kinh doanh hoa cắt cành và hoa cài ngực áo. Lý do đối với việc ít người trồng có thể là do kích thước của cây lan.

CÁCH TRỒNG Cattleya nên được trồng trong chậu hoặc trong giỏ với chất trồng thô để thoát nước tốt, ánh sáng tốt (đây là yếu tố cần thiết để hoa có thể cho hoa), đặt chúng ở nơi thông gió tốt, tưới nhiều nước và bón đủ phân trong thời gian cây đang phát triển. Khi cây bước vào thời kỳ nghỉ thì giảm lượng nước tưới nếu không bộ rễ sẽ bị hư hại. Có thể thay chậu và tách chiết một khi đã thấy có chồi mới xuất hiện. Hầu hết các loài thuộc Cattleya đều ưa nhiệt độ rung bình, song cũng có loài có thể trồng nơi có nhiệt độ ấm áp.

Cattleya aclandiae  Đây là một trong những loài Cattleya có thân nhỏ, chỉ cao 12 cm, có 2 lá, dài 10 cm, rộng 2,5 cm. Vòi hoa có 1-2 hoa, hoa tươi lâu, mùi hương nồng, hoa to 7-11 cm. Lá đài và cánh hoa có màu vàng chanh, vàng hoặc màu da bò, có những vệt màu hạt dẻ và nâu. Môi có màu đỏ sáng, phần gốc màu vàng.  Lan biểu sinh, trong những vực gần bờ biển, trên độ cao 100-400 m ở Brasil.

Cattleya amethystoglossa Giả hành hình trụ, dài 50-100cm, có 2 lá. Vòi hoa dài 25 cm, có 5-10 hoa, hoa to 5-10 cm, các lá đài và cánh hoa màu trắng hoặc hồng nhạt, có những đốm màu đỏ đậm. Các thùy bên của mọi màu trắng, thùy giữa màu đỏ tía. Lan biểu sinh, đôi khi là thạch lan ở những vùng đất thấp của Brasil. Loài tương tự: Cattleya guttata Lindley ở  Brasil, có lá đài màu xanh hoặc xanh vàng và các cánh hoa có những đốm màu đỏ tía hoặc nâu. Loài Cattleya leopoldii có các lá đài màu xanh đồng, các cánh hoa dầy đặc những chấm màu hạt dẻ, hai thùy bên của môi hoa màu hồng nhạt, thùy giửa màu đỏ tía.

Cattleya bicolor Các giả hành hình trụ thon, cao 30 cm, có 2 lá. Vòi hoa dài 20 cm, có 2-5 hoa, hoa to 10 cm, hoa bền và có hương thơm. Các lá đài và cánh hoa màu xanh ánh lên màu đồng đỏ. Môi liền, đậm đà màu đỏ quế, môi hình thuôn hoặc hình cái nêm (chêm), ở gốc có cái cựa.

Lan biểu sinh trong rừng trên núi gần bờ biển ở Brasil.

Cattleya dowiana Giả hành hình cái chùy, dài 22 cm, là loài 1 lá. Vòi hoa hướng lên trên, có thể có nhiều hoa, hoa to tới 18 cm, có hương thơm. Các lá đài và cánh hoa có màu vàng đến màu đồng nhạt, môi đỏ tía, có những đường gân màu vàng. Ra hoa vào mùa hè. Chúng ưa khí hậu ấm và nhiệt độ về đêm tối thiểu là 18oC. Bắt đầu từ màu thu đến mùa xuân thì không cần tưới. Lan biểu sinh trong những khu rừng mưa, trên độ cao 250-800 m, ở Costa Rica, Colombia, Panama.

Cattleya intermedia Giả hành hình trụ cao 40 cm, có 2 lá. Vòi hoa cao 25 cm, có 3-7 hoa, hoa to 13 cm, tươi lâu. Các lá đài và cánh hoa có màu trắng tới màu tím hoa cà, đôi khi có những đốm màu đỏ tía. Môi có 3 thùy, hai thùy bên màu trắng, thùy giữa màu đỏ tía, mép quăn và gợn sóng. Lan biểu sinh và thạch lan, trong rừng gần bờ biển Atlantic ở Brasil, Uruguay, Paraguay.

Cattleya labiata Giả hành cao 30 cm, hình cái chùy, có 1 lá. Vòi hoa hướng lên trên, có 4-5 hoa, hoa to 15- 20 cm. Lá đài và cánh hoa trắng hoặc hồng. Môi lớn, có ba thùy cuộn vào trong, hình ống khói, màu đỏ đậm, họng có những đốm vàng, mép quăn và gợn sóng. Hiện tại có nhiều màu khác nhau. Ra hoa vào mùa thu vì lúc đó ngày sẽ ngắn hơn, có thể làm cho chúng ra hoa vào bất kỳ thời gian nào trong năm miễn là làm sao cho ngày ngắn đi. Xuất xứ: Brasil Loài tương tự: Cattleya warneri Moore Cũng ở Brasil, cây nhỏ hơn, ra hoa vào cuối mùa xuân, ít khi ra hoa vào mùa thu. 

Cattleya lawrenceana Giả hành hình cái chùy, thường có màu đỏ, dài 25 cm, có 1 lá. Đôi khi lá có những chấm đỏ tía. Vòi hoa cao 15 cm, có 5-8 hoa, hoa to 12,5cm. Lá đài và cánh hoa trắng bóng hoặc hồng. Môi hoa liền với một ống thon, dài, phần gốc màu trắng, đỏ tía dần về phía đỉnh. Ưa khí hậu ấm áp, nhiệt độ thấp nhất là 18oC. Lan biểu sinh trong những khu rừng nhiều mưa, nếu là thạch lan thì sống trên các vùng đá lộ thiên, trên độ cao 400-1.900 m ở Brasil, Guyana, Venezuela.

Cattleya loddigesii Giả hành hình trụ, thon nhỏ, cao 30 cm, có 2 lá. Hoa tó 11 cm, có hương thơm, màu trắng xanh đến hồng, hoa lâu tàn. Môi có ba thùy, màu hồng nhạt đến màu hoa tử đinh hương đậm, hai thùy bên hướng lên trên, thùy giữa gần như vuông, quăn mép.  Lan biểu sinh hoặc thạch lan, ở miền đông bắc Argentina, miền đông nam Brasil, Paraguay. 

Cattleya lueddemanniana Giả hành hình trụ, dài 25 cm, có 1 lá. Lá màu xanh xám, khi lá mới hình thành đôi khi có những chấm màu đỏ tía. Vòi hoa có 3-5 hoa, hoa to 22 cm, hương nồng. Các lá đài và cánh hoa có màu hoa oải hương nhạt hoặc đậm, đôi khi là màu đỏ tía. Thùy giữa của môi hình bán cầu, mép quăn, ở phần chân của môi có mảng màu vàng. Trụ hoa cuốn lại ở phần đầu. Ra hoa vào mùa xuân, nhưng nó lại cần có nhiều ánh sáng để phát hoa. Lan biểu sinh ở những vùng trồng cây, trên độ cao 0-1.500 m ở Venezuela.

Cattleya luteola Giả hành dài từ 9-15 cm, hình trứng hoặc hình cái chùy, chỉ có 1 lá. Vòi hoa ngắn hơn lá, có 2-6 hoa, hoa to 5 cm, màu vàng hoặc xanh vàng, bên trong môi có những sọc đỏ. 

Lan biểu sinh, trong những khu rừng nhiều mưa, trên độ cao 100-1.200 m, ít khi thấy trên độ cao 2.000 m, ở Bolivia, Brasil, Ecuador và Peru.

Cattleya maxima

Lan biểu sinh hoặc thạch lan, trong các khu rừng gần bờ biển khô hạn theo mùa, trên độ cao 1.800 m, ở Colombia, Ecuador, Peru, Venezuela.

Cattleya mossiae Giả hành dài 25 cm, hình con quay, có 1 lá. Vòi hoa cao 30 cm, có 2-7 hoa, hoa to 20 cm, hương thơm, lâu tàn. Các lá đài và cánh hoa màu trắng đến hồng. Môi màu trằng hoặc hồng, với một cái họng vàng, có những đường gân màu đỏ tía. Thùy giữa của môi hình bán cầu, màu đỏ đậm, mép gợn sóng. Ra hoa vào mùa xuân.

Lan biểu sinh, trong rừng, trên độ cao 900- 1.500 m, ở Venezuela (đây là quốc hoa của Venezuela)

Cattleya percivaliana Giả hành dài 15 cm, to 2 cm, hình trụ hoặc hình cái chùy, có 1 lá. Vòi hoa cao 25 cm, có 2-5 hoa, hoa to 12,5 cm, hoa chóng tàn, có mùi mốc hoặc mùi gia vị. Các lá đài và cánh hoa màu hoa tử đinh hương. Thùy giữa có màu đỏ tía, mép có màu nhạt hơn, họng màu cam. Ra hoa vào mùa đông. Thường là thạch lan, đôi khi thấy chúng là lan biểu sinh, trồng trực tiếp dưới ánh sáng mặt trời, trên độ cao 1.300-2.000 m ở Colombia, Vevezuela.

Cattleya trianae

Ở Colombo loài này được tôn vinh là quốc hoa.

Loài tương tự: Cattleya schrodenrae Reichenbach f. cũng ở Colombia, có hoa còn lớn  hơn, thường là màu trắng hoặc màu hoa tử đinh hương, rất thơm, với cái môi quăn tít. 

Cattleya violacea Giả hành cao 30 cm, hình trụ đến hình cái chùy, thân thường có màu đỏ và có khía rãnh. Có 2 lá, lá màu xanh với những đốm màu đỏ tía. 

Vòi hoa cao 30 cm, có 3-7 hoa, hoa có hương thơm, to 12 cm, hoa lâu tàn. Các cánh hoa và lá đài có màu hồng đến đỏ tía. Môi có ba thùy với màu tím đậm, điểm thêm màu vàng, phần gốc màu trắng, thùy giữa chuyển sang hình thuôn,có khía. Ra hoa vào cuối mùa xuân tới đầu mùa hè. Lan biểu sinh, trong các khu rừng nhiều mưa, trên độ cao 0-600 m, ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ. 

Cattleya walkeriana Là một loài lan nhỏ, giả hành cao 12 cm, 1-2 lá, Vòi hoa cao 20 cm, có 1-2 hoa, hoa to 12 cm, hương thơm, màu hoa hồng hoặc màu đỏ tía. Môi có màu đỏ đậm với một chi tiết có màu trắng hoặc vàng, sọc màu đỏ tía. Ra hoa vào cuối mùa đông sang mùa xuân.

Lan biểu sinh hoặc thạch lan, trên độ cao 2.000 m, ở Brasil.

Cattleya wallisii Cùng loài: Cattleya eldorado Linden. 

Giả hành cao 15 cm, có 1 lá. Vòi hoa chỉ có ít hoa, hoa to 14-17 cm. Các lá đài và cánh hoa có màu hồng, môi đỏ tía viền vàng cam, họng màu trắng, phần đỉnh của môi có các khía. Ra hoa vào mùa hè-thu. Giống như Cattleya dowiana, chúng thích hợp với khí hậu ấm áp và cần một thời gian nghỉ khô sau khi ra hoa. Loài này được biết đến nhiều hơn bởi cái tên sau này, đó là C. eldorado. 

Lan biểu sinh, trong rừng mưa nhiều ở vùng đất thấp, thuộc Brasil.

Cattleya warscewiczii Cùng loài: Cattleya gigas Linden & André 

Giả hành dài 20-40 cm, hình trụ, lâu dần có các khía rãnh, có 1 lá. Vòi hoa cao 45 cm, có 3-10 hoa, hoa thơm, to 18-27 cm, đây là loài có hoa to nhất trong cùng loài. Các lá đài và cánh hoa màu hồng cho đến màu hoa oải hương, môi đỏ tía với 2 cái mắt màu vàng, mép gợn sóng. Ra hoa vào mùa hè.  Lan biểu sinh ưa ánh sáng mạnh, trên độ cao 500-1.500, ở Colombia.

Nguồn : Sách về hoa lan ( Biên soạn : Bác Phạm Tiến Khoa ) Mua sách

Hoa Lan Disa – Dân Chơi Lan

Hoa lan Disa

Tông: Diseae

Tông phụ: Disinae

Phân bố: Khoảng 160 loài ở miền nhiệt đới châu Phi và Đông Phi, với 1 loài ở Arabia và 4 loài ở Madagsacar và quần đảo Mascarene

Là địa lan thân thảo, với thân hình cầu, hình trứng hoặc hình ê-lip. Lá mọc hoặc là trên thân đang mang hoa hoặc là trên các chồi đã cằn. Vòi hoa không phân nhánh, có từ 1 đến nhiều hoa, hoa nổi bật. Các lá đài không theo quy ước, lá đài sau trông giống cái cựa, thường thì nó làm thành cái mũ chụp đầu, hai lá đài bên phẳng.

Các cánh hoa nhỏ hơn, đôi khi có phân thùy, thường thì ẩn mình bên trong cái mũ chụp. Môi hoa có khi hình đai (strap), nhưng cũng có khi có xẻ thành tua sâu. Trụ hoa ngắn, nắp phấn hoa đứng thẳng, nằm ngang hoặc đối diện so với đầu nhụy nằm dưới nó. Khối phấn 2.

Sau khi phân tích ADN, một số loài trước kia được phân thành một giống riêng như Monadenia và Herschelianthe (cùng loài Herschelia) nay được đưa cả vào giống Disa.

CÁCH TRỒNG

Lan Disa bao gồm nhiều cây rất đáng yêu, nhưng chỉ có một số loài thường được trồng là những loài luôn giữ được màu xanh có liên hệ đến loài Disa uniflora. Đây là những loài ưa trồng nơi mát, chúng có nhu cầu trồng ngoài trời nhưng không phải dưới ánh sáng trực tiếp của mặt trời.

Chúng có nhu cầu được giữ ẩm quanh năm, dù vậy khi cây đang phát triển thì cần tăng cường tưới nước. Một số nhà trồng lan đã đặt ống tưới nhỏ giọt thẳng vào chậu lan. Các cây thuộc giống Disa có thể trồng thành công nếu như ta dùng rêu nước, có hoặc không có đá trân châu (loại đá ngậm nước), cùng với sỏi lấy từ sông để chúng thoát nước tốt. Chúng có thể hấp thụ tốt nhưng cũng không nên bón nhiều phân. Những loài lan lai từ Disa uniflora cũng trồng cùng cách như vậy.

Những cây phát triển mạnh vào mùa đông mang về từ khu vực mưa nhiều về mùa hè ở Nam Phi, như loài Disa sagittalis, có thể được trồng ở lòng chảo với các chất trồng sao cho thoát nước tốt. Khi tưới cần lưu ý đến chồi xanh mới xuất hiện. Sau khi đã ra hoa, cây sẽ chết, cần giữ khô cho đến khi thấy chồi mới hình thành, chỉ cần tưới nhỏ giọt để đề phòng chồi mới bị chết.

Những loài thuộc khu vực nhiệt đới và rụng lá theo mùa thì ít khi được trồng, một phần là do chúng khá khó trồng, một phần là cũng khó tìm thấy chúng. Những loài mà đã từng đưa vào giống Herschelianthe (thí dụ như Disa baueri) là những cây đẹp, với hoa màu xanh dương và cái môi có xẻ tua sâu. Những loài này có trồng ở Nam Phi nhưng ít thấy nơi nào thành công.

Lan Disa cardinalis

Hoa có màu đỏ sáng, to 5 cm. Lá đài sau hình thành một cái mũ chụp, mang theo một cái cựa hình côn. Ra hoa vào mùa xuân-hè.

Hình thành từng nhóm bên dòng suối, trên độ cao chừng 600 m, ở Nam Phi (tỉnh Cape).

Lan Disa crassicornis

Cây khỏe, thuộc loài lan rụng lá theo mùa, cao tới 100 cm. Vòi hoa có 5-15 hoa, hoa to 5 cm, có hương thơm, màu trắng kem và có những đốm màu hồng hoặc đỏ tía. Lá đài sau hình thành cái mũ chụp như ống khói tàu hỏa, dài 20-40 mm, cái cựa hình trụ đầu nhọn như búp măng và uốn cong ngược lại, dài 30-40 mm. 

Sống trong các vùng đồng cỏ, trên độ cao 1.000-2.700 m, ở Nam Phi, Lesotho

Lan Disa racemosa

Là loài lan không rụng lá, lá mọc từ gốc có hình hoa thị, dài 9 cm. Chùm hoa cao 7-100 cm, không thật nhiều hoa, hoa có thể mọc sít nhau hoặc thưa thớt. Hoa màu trắng hoặc màu hồng pha tím hoa cà. Lá đài sau cong lòng chảo với một dấu vết của cái cựa, lá đài hai bên phẳng, dài 15-25 mm.

Ra hoa vào mùa hè.

Thường sống ở vùng đầm lầy, chúng ra hoa sau khi người ta đốt đồng, trên độ cao 0-1.200 m ở Nam Phi (miền tây và nam Cape)

Loài tương tự: Disa venosa Swartz, cũng ở miền tây Cape, có màu hoa đậm hơn và hình dáng lá đài sau cũng khác hơn.

Lan Disa sagittalis

Lan rụng lá theo mùa, cao 30 cm với các lá có hình hoa thị mọc từ gốc, vỏ lụa của lá bao bọc dọc thân. Vòi hoa có thể có nhiều hoa mọc sít nhau hoặc thưa thớt. Hoa nhỏ, màu trắng hoặc màu tím hoa cà. các cánh hoa thường có màu đậm hơn. Lá đài dài 10 mm. Chúng mọc trên đá hoặc trong các khe đá, thường bên cạnh bờ suối, trên độ cao 0-1.000 m, ở Nam Phi (miền đông và miền nam Cape và KwaZulu-Natal).

Lan Disa tripetaloides

Mọc bên các bờ suối và sườn đồi ẩm thấp, trên độ cao 0-1.000 m, ở Nam Phi (tỉnh Cape, KwaZulu-Natal)

Loài tương tự: Disa aurata (Bolus) L. T. Parker & Koopowitz (cùng loài Disa tripetaloides var. aurata Bolus), có hoa lớn hơn một chút, hoa màu vàng sáng.

Lan Disa uniflora

Cây không rụng lá, cao 60 cm. Lá mọc theo thân, dài 25 cm, lá dài nhất là ở phần gốc. Vòi hoa có 1 đến một số hoa. Hoa to 8-12 cm, màu nổi bật, thường là màu đỏ sáng, bên trong cái mũ chụp đầu có màu cam với những đường vân màu đỏ, nhưng cũng có trường hợp là màu vàng hoặc hồng. Lá đài sau dựng đứng, cong lòng chảo, có kích thước 20-60 x 15-20 mm. Cựa dài 10-15 mm. Lá đài hai bên phẳng, dài 65 mm.

Loài lan đẹp này thường được dùng để lai tạo, chủ yếu với các loài cùng giống như Disa cardinalis, D. racemosa và D. uniflora. Có khoảng 85 loài lai tạo với Disa đã được đăng ký, chủ yếu vẫn là với D. uniflora làm cây chính.

Cây mọc dọc theo suối và các tảng đá có nước thấm qua, dưới bóng râm hoặc trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời, trên độ cao 100-1.200 m, ở Nam Phi (miền tây và tây nam Cape).

Nguồn tài liệu từ: Sách hoa lan ( của Bác Phạm tiến Khoa )

Oncidium – Lan Vũ Nữ – Dân Chơi Lan

LAN VŨ NỮ

Tài liệu : chúng tôi ( của Bác Phạm Tiến Khoa )

Mô tả và cách trồng lan Vũ nữ – lan Oncidium.

Phân loại, nguồn gốc, xuất xứ, kỹ thuật chăm sóc và cách trồng lan Vũ nữ – lan Oncidium.

Xuất xứ tên gọi:

Tiếng Hy-lạp, onkos nghĩa là lớn, căn cứ vào vết chai (sẹo) lớn trên môi hoa của nhiều loài.

Tông:

Maxillarieae.

Tông phụ:

Oncidiinae.

Phân bố:

Có khoảng 270 loài ở vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới của châu Mỹ. Điển hình là các loài Oncidium altissimum, Oncidium barbatum, Oncidiumbaueri, Oncidium bifolium, Oncidium blanchetii, Oncidium cheirophorum, Oncidium cornigerum, Oncidium crispum, Oncidium divaricatum, Oncidium ensatumvà nhiều nữa. Ở Việt Nam, phổ biến là loài Oncidium bifolium, Oncidium flexuosum, Oncidium forbesiivân vân.

Lan biểu sinh, thạch lan hoặc địa lan, cây thân rễ ngắn hoặc dài. Giả hành có kích thước và hình dáng khác nhau, đối diện với các lớp vỏ lụa đối xứng. Có 1-4 lá. Vòi hoa phát xuất từ gốc, thường phân nhánh, đứng thẳng, uốn cong hoặc buông rủ và rất dài. Có vài hoa đến nhiều hoa. Hoa có màu nổi bật, khi là vàng khi là nâu. Các lá đài tương tự nhau, các cánh hoa thường rộng hơn. Môi thẳng góc với trụ hoa. Môi liền hoặc có ba thùy với một mô sần ở phần chân dầy, có gai hoặc lông tơ. Các thùy bên nhỏ hoặc rộng, nằm ngang hoặc đối xứng. Thùy giữa phẳng và có khía. Trụ hoa ngắn, cứng với những cái cánh hoặc vật giống dái tai nằm ở phía khác. Khối phấn 2.

Có một số loài thuộc Oncidium đã được lai tạo rộng rãi với các giống khác. Một số đã được mọi người công nhận, song một số khác thì ít được công nhận.

Cách trồng lan Vũ nữ – Lan Oncidium.

Hầu hết các loài thuộc giống này phát triển tốt ở môi trường nhiệt độ trung bình. Trồng trong chậu với chất trồng tiêu chuẩn dành cho lan biểu sinh, thoát nước tốt. Trong quá trình phát triển, cần tưới nhiều nước và cần có một mùa đông khô hơn. Đối với những loài xuất xứ từ vùng cao nguyên, thích hợp với khí hậu mát. Nhiều loài có vòi hoa dài thì cần có cây để cột giữ chúng.

Lan Vũ nữ Oncidium barbatum.

Lan Vũ nữ Oncidium cheirophorum.

Lan Vũ nữ Oncidium crispum.

Lan Vũ nữ Oncidium divaricatum.

Lan Vũ nữ Oncidium fimbriatum.

Lan Vũ nữ Oncidium flexuosum.

Lan Vũ nữ Oncidium forbesii.

Lan Vũ nữ Oncidium fuscatum f. weltonii.

Lan Vũ nữ Oncidium fuscatum.

Lan Vũ nữ Oncidium hastatum.

Lan Vũ nữ Oncidium hastilabium.

Lan Vũ nữ Oncidium leucochilum.

Lan Vũ nữ Oncidium longipes.

Lan Vũ nữ Oncidium maculatum.

Lan Vũ nữ Oncidium ornithorhynchum.

Tài liệu : chúng tôi ( của Bác Phạm Tiến Khoa )

Bạn đang xem bài viết Brassavola – Dân Chơi Lan trên website Inkndrinkmarkers.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!